Link : http://phamvietdao2.blogspot.com/2012/06/xac-inh-co-so-khoa-hoc-e-tim-nguon-goc.html
Hà Văn Thùy
Tìm nguồn gốc dân tộc là khát vọng truyền đời của người dân Việt. Một nhu cầu đặc biệt bức thúc, nảy sinh trong hoàn cảnh bị áp lực nặng nề do ý niệm không biết có từ bao giờ lưu truyền rằng, dân tộc Việt bị người Hoa đồng hóa không những về văn hóa mà ngay cả huyết thống. Không chỉ nhằm đáp ứng đòi hỏi tâm linh “chim có tổ, người có tông” mà một cội nguồn đích thực còn có thể là bằng chứng về sự độc lập của dân tộc, một hy vọng vượt thoát khỏi cái bóng của người láng giềng khổng lồ phương bắc, giúp người Việt ngửng đầu…Vì vậy, từ thời Trần - Lê, các sử gia dựa trên truyền thuyết trong dân gian Việt kết hợp với cổ thư Trung Hoa đã đưa vào chính sử vị tổ Thần Nông Viêm đế và thời điểm năm Nhâm Tuất 2879 TCN lập nước Xích Quỷ.
Thời cận đại, các học giả người Pháp của Viễn Đông Bác cổ cho rằng “Người Việt có mặt ở Trung Quốc từ thế kỷ XI TCN mà di duệ là nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn. Năm 333 TCN, Sở diệt nước Việt. Hậu duệ của Câu Tiễn chạy xuống Việt Nam, thành tổ tiên người Việt.” (1) Các học giả tiên phong như Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh…tiếp thu ý tưởng này, biến nó trở thành tri thức chính thống của người Việt gần thế kỷ nay.
Những năm 80 thế kỷ trước, các sử gia Việt Nam dựa vào khám phá văn hóa Đông Sơn, khẳng định, lịch sử dân tộc ta bắt đầu 700 năm TCN và yêu cầu Quốc hội sửa hiến pháp theo “nghiên cứu” của họ. Nhưng có lẽ do nhiều người còn lưu luyến “nếp nghĩ thời phong kiến với 4000 năm lịch sử”, nên Hiến pháp 1992 chỉ ghi “Việt Nam có mấy nghìn năm lịch sử (!)”, một con số phiếm định, không thể nói là nghiêm túc khoa học. Vì vậy, thời Hùng Vương vẫn gây hoài nghi, như nhận xét có phần mỉa mai của nhà sử học người Mỹ gốc Việt Tạ Chí Đại Trường:
“Các biến động mới cùng sự thất bại không thú nhận của việc nối kết thành quả khảo cổ học với thời Hùng Vương ở miền Bắc, khiến cho vấn đề lại buông thả cho cảm tính, cho những khẩu hiệu chính trị cấp thời của sử học…” (2) Trong thực tế nhiều người vẫn bướng bỉnh níu giữ quan điểm “4000 năm” thậm chí “gần 5000 năm” lịch sử!
Sự nhận thức khác nhau như vậy là điều dễ hiểu bởi lẽ, cho tới cuối thế kỷ XX, khoa học chưa thống nhất về nguồn gốc người hiện đại. Vì vậy việc xác định nguồn gốc của bất cứ dân tộc nào cũng chưa đủ cơ sở! Thực tế chứng tỏ rằng, mặc dù có lịch sử thành văn khá sớm với 24 cuốn sử (nhị thập tứ sử), người Trung Hoa cũng chưa biết gốc gác họ! Điều này không phải lỗi của ai mà do hạn chế của tri thức nhân loại ở thế kỷ trước: khoa học chưa phát minh ra phương pháp luận đủ sức giải quyết nhiệm vụ lớn lao này!
Sự việc càng trở nên phức tạp hơn, khi quá nhiều giả thuyết khác nhau được đặt ra, rồi vì nhiều lý do, người ta níu giữ những “sáng kiến” của mình, từ chối đối thoại với những phát hiện mới, biến những nhà nghiên cứu thành dân Babel, càng nói nhiều càng không hiểu nhau!
Muốn thoát khỏi tình trạng trên, “lập lại trật tự” trong việc tìm hiểu thời tiền sử dân tộc, thiết nghĩ trước hết phải thiết kế một mặt bằng khoa học, tạo sự đồng thuận, để trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu phát huy sáng tạo, tránh sa lầy, lạc hướng phí hoài nguồn năng lượng trí tuệ Việt.
Bài viết này thử đưa ra một “mặt bằng” như thế.
1. Về nguồn gốc loài người.
Cho tới cuối thế kỷ trước, nhiều ngành khoa học mà chủ công là khảo cổ đã xác nhận, con người xuất hiện năm triệu năm trước tại châu Phi. Khoảng hai triệu năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus, loài tiền nhiệm của chúng ta, ra đời tại châu Phi. Khoảng 1,8 triệu năm trước, họ từ châu Phi di cư sang châu Á. Khoảng 250.000 năm trước, người Đứng thẳng rời bỏ châu Á, sang châu Âu mà hậu duệ cuối cùng của họ là người Neanderthals, bị tuyệt diệt khoảng 24.000 năm trước.
Như vậy, một thời gian rất dài, châu Á là vùng đất trắng, không có người sinh sống. Người Java, người Bắc Kinh, người Núi Đọ… là người Đứng thẳng, không có liên hệ di truyền với người hiện đại chúng ta. Những kiến thức vững chắc một thời ghi trong sách Trung Quốc dân tộc sử của Vương Đồng Linh: “Khoảng 500.000 năm trước, sống sót sau bốn lần băng giá, loài người tập trung ở phía nam dải Thiên Sơn rối tiến vào Trung Quốc” là không xác thực.
2. Nguồn gốc người hiện đại (Homo sapiens)
Ở thế kỷ trước, có hai thuyết đối nghịch nhau về nguốn gốc loài người.
Thuyết Một trung tâm cho rằng, con người được sinh ra từ quê hương duy nhất là Đông Phi. Địch thủ của nó là Thuyết Nhiều vùng tuyên bố: con người được sinh ra từ nhiều vùng khác nhau: châu Phi sinh ra người da đen, châu Âu sinh ra người da trắng, châu Á là quê hương người da vàng… Gần suốt thế kỷ, hai thuyết tranh chấp căng thẳng mà không phân thắng bại. Tới thập niên 70, do phát hiện di cốt người Neanderthals có những nét giống người châu Âu nên phần lớn giới khoa học chấp nhận người Neanderthals là tổ tiên người châu Âu. Do sự kiện này, Thuyết Đa vùng thắng thế, trở thành áp đảo trong khoa học nhân loại.
3. Về nguồn gốc người châu Á.
Do sự chi phối của Thuyết Đa vùng từ rất sớm nên các học giả trường phái Viễn Đông Bác cổ của Pháp cho rằng, người châu Á gồm các sắc tộc Hoa, Việt, Hồi, Mãn… xuất hiện ở phía nam Tây Tạng. Họ trước sau tiến vào đất Trung Quốc rồi qua đó một bộ phận xâm nhập Đông Nam Á. Do vậy, Việt Nam cũng như Đông Nam Á trở thành vùng nước đọng của lịch sử, chỉ tiếp nhận dân cư cùng văn hóa từ phía tây bắc đưa xuống mà không sáng tạo được gì! Khoảng những năm 20 thế kỷ trước, học giả người Pháp L. Aurousseau cho rằng, con cháu của Việt Vương Câu Tiễn trốn chạy cuộc tấn công của người Sở, đã xuống Việt Nam, trở thành tổ tiên người Việt.
Viễn Đông Bác cổ là trường phái khoa học có uy tín lớn trong thế kỷ XX nên đã chi phối giới khoa học quốc tế. Trên thực tế, quan điểm của trường phái Viễn Đông Bác cổ chi phối toàn bộ khoa học nhân văn Việt Nam cho tới hôm nay.
4. Phát hiện mới về nguồn gốc loài người.
Ngày 29 tháng 9 năm 1998, Giáo sư Y. Chu của Đại học Texas công bố kết quả đề án nghiên cứu Quan hệ di truyền của người trung Quốc (Genetic Relationship of Population in China) với những nét chính sau:
“Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra từ quê hương duy nhất là Đông Phi, khoảng 160 tới 200.000 năm trước. Họ từ châu Phi, vượt qua cửa Hồng Hải tới bán đảo A rập. Từ đây, một bộ phận theo ven biển Ấn Độ, Pakistan tới Mã Lai, Indonesia. Rồi từ phía tây Borneo, tới Việt Nam khoảng 60 – 70.000 năm trước. Tại đây họ gặp gỡ nhau, hòa huyết, tăng nhân số và khoảng 50.000 năm trước, di cư ra các hải đảo Đông Nam Á, châu Úc; đi về phía tây chiếm đất Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước do khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên chiếm lĩnh đất Trung Hoa và 30.000 năm trước, vượt eo Berinh sang chinh phục châu Mỹ.” (3)
Đây có thể được coi là phát kiến lớn nhất của khoa học nhân văn thế kỷ XX. Nó làm Thuyết Nhiều vùng sụp đổ. Do thuyết này thống trị thời gian dài nên khi sụp đổ, gây đảo lộn không tránh khỏi cho khoa học nhân văn thế giới.
Công bố của nhóm Giáo sư Y. Chu không phải chuyện “trên trời rơi xuống” bởi lẽ khảo cổ học trước đó đã phát hiện sọ người Australoid có tuổi 50.000 năm tại vùng hồ Mungo châu Úc và bộ xương người Mongoloid 68.000 năm tuổi tại Quảng Tây Trung Quốc. Trước đây những hiện tượng này không thể giải thích được nhưng nay lại là bằng chứng cho thấy cuộc di cư mà di truyền học phát hiện là có thật.
Làm khảo sát truy ngược gen Homo sapiens, khoa học phát hiện rằng: tất cả đàn ông trên thế giới được sinh ra từ người đàn ông duy nhất 160.000 năm trước. Trong khi đó, giới nữ được sinh từ 3 bà tổ khác nhau. Như vậy là thoạt kỳ thủy, từ châu Phi, một ông tổ và ba bà tổ sinh ra ba dòng con, về sau hình thành ba đại chủng người Mongoloid (da vàng), Australoid (da đen) và Europid (da trắng).
5. Về sự hình thành người Việt theo phát hiện của giới khoa học quốc tế.
Thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, nhiều kết quả nghiên cứu di truyền về nguồn gốc loài người được công bố. Không chỉ khẳng định phát hiện của nhóm Y. Chu, nhiều nghiên cứu cung cấp những tư liệu vô giá làm sáng tỏ sự hình thành dân cư Đông Á mà Việt Nam là trung tâm:
- Công trình The Journey of Man: A Genetic Odyssey của Spencer Wells thuộc Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ xác nhận: “Loài người Homo sapiens xuất hiện đầu tiên ở vùng Ethiopia, khoảng 160.000 năm trước. Người tiền sử từ châu Phi, vượt Hồng Hải tới đất Syria và từ đây qua Ấn Độ, Pakistan tới Viễn Đông.” (4)
- Công trình Rời khỏi địa đàng chiếm lĩnh thế giới của Stephen Oppenheimer, Đại học Oxford nước Anh cho thấy: Người Khôn ngoan Homo sapiens sinh ra đầu tiên tại Đông Phi 160.000 năm trước. Khoảng 132.000 năm trước họ vượt cửa Hồng Hải tới bán đảo A rập rối tiến về phia tây. Khoảng 90.000 năm trước, hậu duệ của nhóm này bị tuyệt diệt trên đất Israel vì băng giá. Khoảng 85.000 năm trước, cuộc di cư lần thừ hai được thực hiện. Lần này, vượt cửa Hồng Hải, họ tới bán đảo A rập rối từ đây, một bộ phận theo bờ biển Nam Á tiến vào Đông Nam Á. Khoảng 70.000 năm trước, từ phía tây Borneo, họ xâm nhập Việt Nam. Tại Việt Nam, họ tăng nhân số rồi di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, đi về phía tây tới Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước, chiếm lĩnh đất Trung Hoa và 30.000 năm trước, vượt eo Berinh sang châu Mỹ. (5)
- Công trình của Ballinger xác nhận, người Mông Cổ cũng từ Đông Nam Á lên. (6)
- Nghiên cứu của nhóm nhà khoa học Tây Ban Nha, Ý, Georgia phân tích 5.000 chiếc răng hóa thạch phát hiện ở châu Âu cho thấy: khoảng 40.000 năm trước, người tiền sử từ Trung Đông qua eo Bosphorus vào châu Âu. Ở đây họ gặp những người từ Đông Á sang qua đường Trung Á. Hai dòng người hòa huyết cho ra người Eurasian, tổ tiên người châu Âu hiện nay. (7)
- Nhiều nghiên cứu về nguồn gốc những tộc người nói tiếng Nam Đảo Austronesian ở các đảo Nam Thái Bình Dương cho thấy họ đều từ vùng cửa sông Dương Tử hay Việt Nam di cư tới. (8)
- Những nghiên cứu về DNA của lợn ở Thái Bình Dương cho thấy, loài vật nuôi này được đưa từ Việt Nam tới. (9)
- Nhiều nghiên cứu khẳng định: người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư Đông Á, có nghĩa là người Việt Nam cổ nhất Đông Á. (12)
6. Ứng dụng thành tựu khoa học mới vào tìm hiểu nguồn gốc người Việt.
Không phải bỏ đồng xu nào nghiên cứu mà được hưởng những thành quả như vậy là may mắn lớn cho người Việt. Nhưng nói cho cùng thì đó cũng là cái duyên, cái phúc vì chính Việt Nam là vườn trẻ của phần quan trọng nhân loại.
Là người sớm tiếp cận thành tựu khoa học mới có liên quan tới dân tộc Việt, chúng tôi đã chú tâm theo dõi, tích lũy những tài liệu cần thiết.
Tuy nhiên, do không có nghiên cứu nào riêng cho người Việt Nam vì vậy, chúng ta chưa có được những kết luận có thẩm quyền khoa học về vấn đề này. Mặt khác, trong những tài liệu di truyền học lại có sự mâu thuẫn, trái ngược nhau nên cần đối chiếu với những tư liệu liên ngành khác để đưa ra những kiến giải sát hợp với hoàn cảnh Việt Nam
Từ thực tế đó, chúng tôi thấy cần có phương pháp luận riêng áp dụng cho khảo cứu:
Dùng tài liệu di truyền học như một thứ kim chỉ nam để tìm hiểu nguồn gốc cùng sự di cư của người Việt đồng thời dùng những tri thức khảo cố học, cổ nhân chủng học, văn hóa, ngôn ngữ học để kiểm chứng và soi sáng kiến thức di truyền.
Từ phương pháp luận đó, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu những vấn đề mấu chốt sau:
6.a. Người tiền sử từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước là ai?
Việc này có ý nghĩa như một tiên đề. Nếu không sẽ không giải quyết rốt ráo những vấn đề rất phức tạp về nhân chủng học Việt Nam và Đông Á. Đáng tiếc là trong các tài liệu di truyền học đã công bố, không có tài liệu nào đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, có thể tìm theo con đường khác.
Từ khảo sát 76 sọ cổ được phát hiện tại Việt Nam, nhà nhân học hàng đầu của Việt Nam Nguyễn Đình Khoa, cho thấy:
“Thoạt kỳ thủy, trên đất Việt Nam có mặt hai đại chủng người tiền sử là Australoid và Mongoloid. Họ lai giống với nhau và các thế hệ con cái lai giống tiếp cho ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid.” (11)
Như vậy, có thể khẳng định, người tiền sử tới Việt Nam 70.000 năm trước gồm hai đại chủng Australoid và Mongoloid, trong đó người Australoid chiếm đa số tuyệt đối. Chính đây là kim chỉ nam giúp tìm hiểu về sự hình thành dân cư Đông Á.
6. b. Về người Mongoloid phương Bắc.
Chủng Mongoloid phương Bắc có mặt trên đất Mông Cổ là bằng chứng nặng ký ủng hộ Thuyết Nhiều vùng. Tuy nhiên vai trò của họ khá phức tạp trong sự hình thành dân cư Đông Á:
“Người Mongoloid có mặt trong bước đầu hình thành dân cư Việt Nam. Tuy nhiên suốt thời Đồ Đá, họ biến mất, nhường chỗ cho người Australoid. Nhưng tới thời Đồ Đồng, họ xuất hiện trở lại và thay thế người Australoid giữ vai trò chủ thể không chỉ trên đất Việt Nam mà toàn bộ Đông Á.” (11)
Suốt nửa cuối thế kỷ XX, giải thích hiện tượng này là thách thức lớn với giới khoa học. Sẽ là không thể trả lời, nếu chỉ có khảo cổ và cổ nhân học. Ngay cả các nghiên cứu di truyền của của Y. Chu, S. Wells, S. Oppenheimer… cũng không giúp làm sáng tỏ điều bí ẩn lớn này.
Rất may là nghiên cứu của Ballinger phát hiện sự kiện quan trọng:
“Người Mongoloid cũng từ Đông Nam Á đi lên.” Nói Đông Nam Á là nói chung, theo thống kê học, từ quan điểm của nhà di truyền. Chính xác phải nói là từ Việt Nam vì đây là địa bàn tập kết đầu tiên của người tiền sử trên lục địa Đông Á.
Đó chính là chìa khóa của vấn đề dân cư Đông Á.
Kết hợp phát hiện của Ballinger với kết quả khảo cổ học, chúng tôi đưa ra nhận định:
- Người tiền sử tới Việt Nam 70.000 năm trước gồm đại chủng Mongoloid và Australoid. Họ đi thành những nhóm nhỏ riêng biệt. Tới Việt Nam, phần lớn họ tập trung tại thềm Biển Đông để hòa huyết sinh ra người Việt cổ. Trong khi đó có những nhóm Mongoloid riêng lẻ đi tới tây bắc Đông Dương. Khoảng 40.000 năm trước, do thời tiết bớt lạnh, họ theo hành lang Ba Thục lên định cư tại tây bắc Trung Quốc và đất Mông Cổ, bảo tồn nguồn gen, sau này hình thành chủng Mongoloid phương Bắc. Việc khảo cổ tìm ra di cốt người Mongoloid 68.000 năm tuổi ở Quảng Tây và người Mông Cổ phương Bắc trên đất Mông Cổ 40.000 năm trước xác nhận điều này. (12)
6. c. Về người Mongoloid phương Nam.
Người Mongoloid phương Nam là chủng lớn nhất trong dân cư Đông Á ngày nay. Nhưng khảo cổ học xác nhận, suốt trong thời Đồ Đá, trên đất Đông Nam Á không có chủng này. Vậy vấn đề đặt ra là họ có nguồn gốc từ đâu và xuất hiện vào thời gian nào?
Nhờ khảo cổ học, ta biết, khoảng 5.000 năm TCN, trên đất Trung Quốc xuất hiện văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều phía nam Hoàng Hà và văn hóa lúa nước Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Chiết Giang mà chủ nhân là chủng Mongoloid phương Nam. Di truyền học cho thấy, vào thời điểm này, người Mongoloid phương Nam là sản phẩm hòa huyết giữa người Mongoloid phương Bắc và người Việt cổ chủng Australoid. Từ thông tin này, chúng tôi đưa ra cách giải thích như sau:
6. d. Về nguồn gốc người Ngưỡng Thiều:
Từ lâu, người Mông cổ phương Bắc sống du mục ở phía bắc Hoàng Hà. Mùa đông họ lùa mục súc về bên sông để tránh rét và có nguồn nước. Việc mua bán trao đổi giữa hai cộng đồng đã nảy sinh những mối tình tự nhiên và cả sự hiếp tróc diễn ra trong những lần cướp phá, dẫn tới những lớp con lai ra đời, mang bộ gen Mongoloid phương Nam. Về mặt di truyền, người Việt cổ sống ở nam Hoàng Hà có sẵn trong huyết quản nguồn gen Mongoloid. Nay được bổ sung gen Mongoloid từ người Mông Cổ phương Bắc, yếu tố Mongoloid trở nên ưu thế, chuyển hóa một bộ phận người Việt cổ trong vùng trở thành Mongoloid phương Nam. Sau hàng nghìn năm như vậy, người Mongoloid phương Nam trở thành chủ thể của dân cư văn hóa Ngưỡng Thiều. (12)
6. e. Sự hình thành dân cư Hà Mẫu Độ.
Có thể người Hà Mẫu Độ được ra đời như sau:
Theo nghiên cứu của Stephen Oppenheimer thì khoảng 40.000 năm trước, người tiền sử từ Việt Nam đã theo bờ biển lên cư trú ở vùng cửa sông Dương Tử. Trong số họ, có những nhóm Mongoloid nhỏ lẻ sống riêng rẽ tại đây. Họ sinh sống bằng săn bắt hái lượm mà đánh cá là nghề quan trọng. Khoảng 5.000 năm TCN, người Việt chủng Australoid làm nông nghiệp từ bên trong lục địa mở rộng vùng cư trú tới đây. Họ gặp nhau và sự hòa huyết diễn ra. Với thời gian, người Mongoloid phương Nam trở nên đa số trong dân cư duyên hải phía đông Trung Quốc. (12)
6. g. Sự hình thành người Việt Nam hiện đại
Khoảng 5.000 trước, vùng Sơn Đông và Ngũ Lĩnh trở thành hai trung tâm lớn của người Việt mà chủng Mogoloid phương Nam là thành phần đa số. Cũng thời điểm này bắt đầu cuộc di cư tự nhiên của dân cư trong vùng xuống Việt Nam và các hải đảo Đông Nam Á. Đế Nghi chia đất, phong vương cho Đế Lai và Lạc Long Quân lập nước Xích Quỷ. Cũng lúc này, cuộc xâm lăng của người du mục Mông Cổ trở nên khốc liệt hơn, dẫn tới trận Trác Lộc, liên quân Việt bại trận. Trước tình thế khó khăn, Lạc Long Quân dẫn quân dân Việt dùng thuyền theo Hoàng Hà vượt biển xuống Việt Nam, đổ bộ vào Nghệ Tĩnh, như được ghi trong Ngọc phả Đền Hùng.
Dòng người Việt chủng Mogoloid phương Nam trong đoàn di tản của Lạc Long Quân cùng người Việt bản địa chủng Australoid chung tay xây dựng nhà nước Văn Lang. Hai dòng người hòa huyết cho ra người Việt Nam hiện đại thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Cuộc thiên di của người Mogoloid từ duyên hải nam Trung Hoa xuống Việt Nam còn được tiếp tục trong thời gian dài, khiến số lượng người Mongoloid phương Nam tăng lên, cho tới 2.000 năm TCN trở thành đại đa số trong dân cư Việt Nam.
Với nhiều chứng cứ được phát hiện, tiêu biểu là di chỉ Mán Bạc Ninh Bình 2.000 năm TCN, với 30 di hài người Australoid và Mongoloid được chôn chung, khoa học đưa ra nhận định: trên đất Việt Nam đã có sự chung sống lâu dài giữa người Australoid và người Mongoloid. Tới 2.000 năm TCN, việc hòa huyết giữa họ hoàn tất, hầu hết dân cư là Mongoloid phương nam.
Như vậy có thể rút ra kết luận: người Việt Nam hiện đại được hình thành từ đầu thiên niên kỷ III TCN do sự hòa huyết giữa người Australoid tại Việt Nam và người Mongoloid phương Nam từ vùng Sơn Đông và Ngũ Lĩnh di cư xuống. Cho tới 2.000 năm TCN, chủng Mongoloid phương Nam là chủ thể của dân cư Việt Nam. (13)
6. h. Về hiện tượng Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á
Từ giữa thế kỷ trước, căn cứ vào khảo sát sưu tập sọ người cổ được phát hiện ở Đông Nam Á, giới nhân chủng học nhận định: suốt trong thời Đồ Đá, chủng Australoid giữ vai trò độc tôn trong dân cư khu vực. Nhưng sang thời đại Kim khí, người Mongoloid xuất hiện và sau đó thay thế người Australoid, trở nên thành phần chủ đạo của dân cư khu vực. Hiện tượng này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, hoàn tất vào khoảng 2.000 năm TCN.
Như vậy là, quá trình Mongolid hóa dân cư không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà chung cho toàn khu vực. Đến cuối thế kỷ trước, khoa học chưa giải thích được hiện tượng này.
Ngày nay, nhờ những nghiên cứu di truyền học, ta có thể giải thích như sau:
Khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN, người Mogoloid phương Nam tại duyên hải Đông Nam Trung Hoa tăng nhân số, trở thành đa số trong dân cư. Do áp lực dân số, họ di cư sang Đài Loan, Việt Nam và các hải đảo Đông Nam Á. Khoảng 2.600 năm TCN, cuộc xâm lăng của người du mục Mông Cổ chiếm nam Hoàng Hà thúc đẩy cuộc di cư này.
Do dân nhập cư và do chuyển hóa di truyền từ hòa huyết với người di cư mà trong thiên niên kỷ III TCN diễn ra quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Tới cuối thiên niên kỷ III TCN, quá trình này hoàn tất, tạo ra diện mạo dân cư Đông Nam Á như ngày nay. (12)
6. i. Sự hình thành dân cư Trung Hoa
Trung Hoa là quốc gia trung tâm của châu Á, với số dân khổng lồ. Cho đến nay, nguồn gốc và quá trình hình thành khối người đông đúc này chưa được làm rõ. Vì vậy, nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử và văn hóa phương Đông còn bị khuất lấp.
Người Trung Quốc cho rằng, tổ tiên họ là người Hoa Hạ. Nhưng họ cũng chưa biết nguồn gốc người Hoa Hạ từ đâu. Vì vậy, vấn đề then chốt là xác định người Hoa Hạ là ai, xuất hiện ở Trung Quốc khi nào và trong hoàn cảnh nào?
Trong thế kỷ XX, theo Thuyết Đa vùng, phổ biến quan niệm cho rằng, các sắc dân châu Á như Hoa, Việt, Mông, Mãn… xuất hiện từ xa xưa ở phía nam dải Thiên Sơn. Người Việt theo nguồn sông Dương Tử vào chiếm đất Trung Quốc. Khoảng 2.600 năm TCN, người Hoa vượt Hoàng Hà xâm chiếm đất đai, đẩy người Việt chạy dần về phương nam.
Sang thế kỷ XXI, Thuyết Đa vùng phá sản, người ta đi tìm những cách lý giải khác về nguồn gốc người Hoa Hạ. Trong tài liệu Sự hình thành văn minh nông nghiệp ở Trung Hoa (14), Giáo sư Zhou jixu, dựa trên so sánh ngôn ngữ học, cho rằng, người Hoa Hạ thuộc dòng Arian từ phía tây tới.
Chúng tôi thấy thuyết này không phù hợp thực tế. Nếu là người Arian thì mã di truyền (genome) của người Trung Quốc phải mang gen Á - Âu (Eurasian). Trong khi đó, chính Zhou Jixu thừa nhận, người Hán chiếm 93% dân số Trung Quốc thuộc chủng Mongoloid phương Nam.
Từ tài liệu di truyền học mới nhất, kết hợp với những tư liệu khảo cổ học, cổ nhân học, văn hóa học hiện có, chúng tôi thấy như sau:
- Mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, như vậy người Hoa Hạ phải là kết quả hòa huyết giữa người Mongoloid và người Australoid.
- Là con cháu của Hoàng Đế, người Hoa Hạ phải ra đời sau Hoàng Đế, tức là sau năm 2698 TCN và cố nhiên, phải được sinh ra trên đất Việt, phía nam Hoàng Hà.
- Điều này có nghĩa, người Hoa Hạ không phải từ ngoài xâm nhập và cũng không thuộc hai nhóm Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ.
- Từ đó có thể kết luận: người Hoa Hạ ra đời sau cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, chiếm phía nam Hoàng Hà, là kết quả của sự hòa thuyết giữa người Mongoloid phương Bắc và người Việt bản địa (Australoid).
Như vậy, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, trên đất Việt cổ, từ lưu vực Hoàng Hà tới Dương Tử có ba nguồn sinh tạo người Mongoloid phương Nam: người Việt Ngưỡng Thiều, người Việt Hà Mẫu Độ và người Hoa Hạ trong vùng quân Mông Cổ chiếm đóng. Vừa tự sinh vừa chuyển hóa di truyền người Việt cổ, tới cuối thiên niên kỷ III TCN, người Môngoloid phương Nam đã thay người Việt cổ (Australoid) trở thành đa số trong dân cư trên phần đất Việt cổ mà sau này thuộc về Trung Hoa.
Trong một hai bài viết trước đây, chúng tôi cho rằng, sau thời Hoàng Đế, người Hoa Hạ kế tục vai trò của cha ông Mông Cổ, cai trị vương triều do Hoàng Đế tạo dựng. Nhưng có thể không phải vậy. Theo sử Trung Hoa, Hoàng Đế cai trị khoảng 100 năm (2698 – 2598 TCN), tiếp theo là Thiếu Hạo và Chuyên Húc. Nhưng sau đó, vương quyền chuyển về người Việt với Đế Cốc, Đế Chí, Đế Du Võng rồi Đế Nghiêu (2337 –2258 TCN), Đế Thuấn, Đế Vũ (2205 –2198 TCN), Đế Ất (Thành Thang 1766-1122 TCN). Chỉ sau khi diệt nhà Ân, Vũ vương lập nhà Chu, người Hoa Hạ mới nắm vương quyền (1046 TCN).
Để khẳng định vai trò tộc Hoa Hạ, nhà Chu nhận thủy tổ Hoàng Đế và tôn Hậu Tắc, vị quan coi nghề nông thời vua Thuấn làm tổ trực tiếp của mình. Không những thế, họ chủ trương bỏ qua các triều đại người Việt trước đó để chỉ ghi sử Trung Hoa từ thời Chu. Thậm chí, như Zhou Jixu cho thấy, lịch sử nông nghiệp Trung Hoa cũng chỉ được tính từ khi ông Hậu Tắc học trồng kê (khoảng 2.300 năm TCN). Trong khi đó khảo cổ phát hiện di chỉ trồng lúa từ 12.000 năm trước ở phía nam Dương Tử!
Tuy xưng bá nhưng nhà Chu chỉ chiếm diện tích và dân số nhỏ ở Trung Nguyên, trong mối liên kết lỏng lẻo với hàng trăm quốc gia khác. Không những thế, vương triều Chu còn bị kẹp giữa các quốc gia của người Việt ở xung quanh: Ba, Thục phía Tây Nam; Ngô, Sở, Việt phía đông; Văn Lang phía nam.
Vì vậy, quan niệm cho rằng nhà Chu là quốc gia lớn bao trùm Trung Nguyên chỉ là sự ngộ nhận. Thực tế cho thấy, chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, sáp nhập Ba, Thục, Sở vào vương triều Tần, Trung Quốc mới có diện mạo như hiện nay. Như vậy, Trung Quốc hình thành chủ yếu từ sự sáp nhập đất đai, dân cư và văn hóa của các quốc gia Việt. Nhận định này cũng phù hợp với đánh giá của học giả Trung Quốc Trương Quang Trực: “Điểm gốc cùa văn minh Trung Hoa chỉ bao gồm vài ba bộ lạc ở ba tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, lưu vực sông Hoài” (15). Và cũng đúng với ý kiến của học giả Bỉnh Thế Hà khi kết thúc tác phẩm “The Craddle of the East”: “Nước Tàu làm nên do những người không phải là Tàu.” (16)
Do Tần Thủy hoàng là người Việt nên người Hoa Hạ không còn vị trí ưu thế mà hòa tan với cộng đồng Việt. Từ đây, danh xưng Hoa Hạ dùng chỉ chung khối người chủng Mongoloid phương Nam trên lưu vực Hoàng Hà.
Hơn 2.000 năm nay, do chưa phân định rõ việc này dẫn tới ngộ nhận rằng Hoa Hạ là tộc người hình thành từ xa xưa, vượt Hoàng Hà, chiếm Trung Nguyên, dựng nước Trung Quốc, xua đuổi người Việt “chạy có cờ” về phía nam. Sự lầm lẫn lớn của lịch sừ!
Có một sự thực mà it người để ý, là thời Tam Quốc, Tào Tháo muốn diệt Ngô và Thục nên dùng gián điệp điều tra hai nước này. Được giao việc, Hứa Tịnh báo cáo: “Trong suốt mười năm, tôi đi vạn dặm đường, từ Hội Kế (Cối Kê) tới Giao Chỉ mà bất kiến Hán địa.” Sở dĩ nói vậy là do Hứa Tịnh, như mọi người phương bắc, quan niệm khung cảnh văn hóa lưu vực Hoàng Hà mới là đất Hán. Trong khi đó, vùng nam Dương Tử có quang cảnh khác hẳn, từ con người tới nếp sống nên không phải là đất Hán vì vậy, không thấy đất Hán. [(許靖):“南至交州,经历东瓯、闽越之国,行经万里,不见汉地 / Nam chí Giao Châu, kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lý, bất kiến Hán địa”. 三國志。蜀書].Đi trong vương quốc Hán mà không thấy đất Hán! Thực tế này là chứng cứ cho thấy, không hề có chuyện người Hán đồng hóa người Việt.
Con đường đi tìm sự thật quá gian nan, nhưng bản thân sự thật thì đơn giản. Điều này hoàn toàn đúng khi nói về nguồn gốc người Việt. Nhờ khoa học tìm ra nguồn gốc cùng sự di cư của loài người, sự thật hiện ra rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật: người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam trở thành tổ tiên người Việt…
Do lạc trong mê lộ quá lâu mà cho tới nay không ít người chưa ra khỏi tình trạng đa thuyết loạn ngôn. Có người vẫn cho rằng, người châu Á cổ hơn người châu Phi. Có người hồ nghi hỏi: chuyện lục địa chìm Atlantic giài thích sao đây? Cho tới nay, đó vẫn chỉ là huyền thoại bởi khoa học chưa tìm ra bất cứ bằng chứng nào về chuyện này. Xin cứ để nó trong truyền thuyết, bởi lẽ, dù có hay không Atlantic cũng không ảnh hưởng gì tới nguồn gốc loài người. Bản đồ gen cho thấy, từ 160.000 năm xuất hiện cho tới nay, sự phát triển của con người là liên tục! Hiện cũng có một số người bàn tán về thuyết Loài người phát xuất từ Tây Tạng do bác sĩ nhãn khoa người Nga Munđasep đề xuất. Dựa trên sự giống nhau về hình dạng con mắt của cư dân Tây Tạng với nhiều sắc dân khác, tác giả cho rằng, Tây Tạng chính là quê hương của loài người. Trước hết, cách lập luận như vậy là không hợp logic. Nếu hình dạng cặp mắt của người Tây Tạng giống với nhiều sắc dân khác là có thật thì điều này còn là kết quả của sự giao thoa gặp gỡ của những dòng người đi qua Tây Tạng. Di truyền học và lịch sử đã xác nhận: 40.000 năm trước, người Việt cổ từ Đông Á qua đây, rồi vượt Trung Á, vào châu Âu, góp máu sinh ra tổ tiên người châu Âu. Khoảng 15.000 năm trước, người châu Âu theo con đường ngược lại, qua Tây Tạng, sang phương Đông. Lúc này tại vùng biên giới phía tây Trung Hoa, người Việt đã đông nên người di cư khó thâm nhập. Họ dạt xuống tây nam, trở thành các tộc Eurasian thiểu số ở đây. Một bộ phận vượt lên phía bắc, tới Đông Bắc Trung Quốc, thành người Altaic ở Siberi, người Ainu thiểu số trên đất Nhật Bản. Không chỉ thế, người Mông Cổ, người Trung Á… nhiều lần qua Tây Tạng trong những cuộc chinh chiến ở châu Âu, Trung Đông… Chính sự di chuyển đan xen như vậy của nhiều dòng người trong quá trình lịch sử dài đã làm nên sự đa đạng trong bộ gen người Tây Tạng hôm nay. Thuyết Nguồn gốc Tây Tạng có lẽ là thất bại cuối cùng trong cuộc đi tìm nguồn gốc con người. Nó cũng thể hiện sự tụt hậu của khoa di truyền học của nước Nga, một nền khoa học lớn bị suy sụp từ thời Xtalin-Lưxencô.
Thiết nghĩ, trên đây là một mặt bằng khoa học tối thiểu để có thể từ đó nhìn nhận thời tiền sử Việt Nam và Đông Á. Nếu không đứng trên ngưỡng tri thức như vậy, sự thảo luận sẽ rất dễ lạc đường.
Tháng Năm 2012
HVT
Trần trọng Kim. Việt nam sử lược.
Tạ Chí Đại Trường. Về "huyền sử gia" Kim Định "huyền sử học" Việt Nam. (377) và Ảnh hưởng của Kim Định đối với các học giả trước kia và hiện nay (378) tạp chí Xưa&nay, tháng 4 năm 2011
Chu, J. Y. et al, Genetic relationship of populations in China, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768 (1998)
Spencer Wells. The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Princeton University Press. 2002.
5. Stephen Oppenheimer - Out of Eden Peopling on the World http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html
S. W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45
7. Tổ tiên người châu Âu là ai? http://www.radio-canada.ca/nouvelles/Science-Sante/2007/08/07/004-europe-colonisation-asie.shtml?ref= rss
8. G. Solheim II, The Nusantao hypothesis: The origins and spread of Austronesia speakers, Asian Perspective XXVI, 1984-1985, pp. 77-78.
9. Wilhelm G. Solheim II, Taiwan, Coastal South China, and Northern Vietnam and The Nusantao Maritime Trading Network, Journal of East Asian Archeology, JEAA, Vol. 2, No. 1-2, 2000, pp. 273-284.
10. Stephen Oppenheimer, The ‘Express Train from Taiwan to Polynesia’: on the congruence of proxy lines of evidence, World Archaeology Vol. 36(4): 591 – 600 Debates in World Archaeology, 2004.
11. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á, Hà Nội, 12. 1983.
12. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. Văn học, 2008.
13. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. Văn học, 2011.
14. Zhou Jixu: The Rise of Agricultural Civilization in China. Sino-platonic papers. Number 175 December, 2006
15. K.C. Chang, The Archaeology of Ancient China, New Haven, Conn. 1968. Theo Cung Đình Thanh, “Tìm Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam”, nxb Tư Tưởng, Sydney, 2003, tr.62.
16. Kim Định. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc. H.T. Kelton, USA, 1984
TIN TỔNG HỢP
Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012
Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012
BINH THƯ YẾU LƯỢC
Link : http://blog.yahoo.com/quangdonquichotte/articles/172869/category/Văn+hiến+Lạc+Việt
Lang thang trên mạng
thấy bộ này của danh tướng Trần Hưng Đạo. Nghe dư luận thì bộ này đã thất
truyền, còn tài liệu dưới đây có thể do người đời sau ngụy tạo ???
BINH THƯ YẾU LƯỢC
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
•THIÊN-TƯỢNG
•GIẢN-MỘ
•TUYỂN TƯỚNG
•MỆNH TUỚNG
•TƯỚNG-ĐẠO
•GIẢN-LUYỆN
•QUÂN-LỄ
•THUỞNG PHẠT
•MẠC-HẠ
•BINH-CỤ
•HIỆU-LỆNH
Lời nói đầu.
Việc binh là việc sống chết của nhân-dân, là việc còn mất
của quốc-gia nên bất cứ triều-đình nào, chánh-phủ nào, cũng đều phải lưu tâm
đến binh-học. Bởi lẽ ấy, các võ-quan thời xưa đều phải thi võ-thuật và chịu
khảo-hạch về binh-thư.
Nhưng các binh-thư lại có rất nbiều thứ. Phần Nghệ-văn-Chí
trong Hán- thư có chép rằng : Nhiệm-hoành chia các binh-thư ra làm 4 loạỉ :
1.Binh Quyền Mưu,
2.Binh Hình-thế.
3.Binh Âm Dương
4.Binh Kỹ-xảo.
Nếu điểm qua các binh-thư trứ danh của Trung-quốc trong các
đời thì về đời Tam-hoàng có các sách:
Huỳnh Đế Binh Pháp
Ốc-Kỳ-Kinh của Phong-Hậu
Trong đời Chu được soạn các sách:
Thái-Công Binh-pháp của Lã-Vọng
Lục-Thao của Triều-đình Chu
Chu-Công Tư-Mã-Pháp
Tư-Mã Binh-pháp của Điền-Nhương-Tư (nuớc Tề)
Tôn-Tử Binh-pháp của triều-đình Ngô
Ngô-Tử Binh-pháp của triều-đình Ngụy
Uất-Liễu-Tử Binh-pháp của Uất-liễu (học trò của Quỉ Cốc Tử)
Trong đời Hán có:
Tố-thư của Huỳnh-thạch-công
Tâm-thư của Khổng-minh
Vào đời Đường có:
Thái-Bạch Âm-Kinh của Lý Thuyên
Lý-Vệ-Công Vấn-Đối của triều-đình Đường,…
Nếu chỉ xét riêng các binh-thư còn thấy được ngày nay cũng
có tới 53 nhà:
-13 nhà về Quyền Mưu
-11 nhà về Hình Thế
-16 nhà về Âm-duơng
-13 nhà về Kỹ Xảo
Xem trên thì đủ hiểu rằng binh-học sâu rộng như rừng, như
biển, làm sao các võ-quan có thể đọc hềt các binh-thư được.
Bởi thế, các đời sau có soạn những bộ binh thư tổng-hợp
thường được gọi là Võ Kinh.
Trong đời Tống có các bộ:
Võ Kinh Tổng-Yếu (40 quyển) của nhóm Tăng-Công-Lượng
Hổ Kiềm-Kinh (20 quyển) của Hứa Động
Bị-Luận (l quyển) của Hà-Khứ-Phi
Mỹ-Cần-Thập-Luận (l quyền) của Tân-Khí-Tật
Võ-Kinh Thất-Thư gồm có 7 sách tuyển-định là:
1.Thái-Công Binh-pháp
2.Lục-Thao
3.Tư-Mã pháp
4.Tôn-Tử
5.Ngô-Tử
6.Uất-Liễu-Tử
7.Lý-Vệ-Công Vấn-Đối
Trong đời Minh có các bộ :
Võ-Kinh Khai-Tông (14 quyển) của Huỳnh-Hiến-Thần
Võ-Kinh Tá-Nghị (7 quyển) ;
Võ Biên (12 quyển) của Đường-Thuận-Chí
Võ-Bị Chí (240 quyển) của Mao-Nguyên-Nghi
Võ-Bị Tâm-Lược (7 quyển) của Thi-Vĩnh-Đồ, vân vân.
Các binh thư soạn ra thực là nhiều, không kể xiết! Nhưng từ
đời Minh trở về sau binh-học của Trung quốc có vẻ suy-đồi nên các binh-thư soạn
ra về sau ít được người đời nhắc nhở.
Trong dĩ-vãng, nước Việt-nam đã trải qua nhiều cuộc chiến
tranh. Các triều đại lớn như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được xây-dựng
và giữ-gìn bằng chiến-công nên không thể xao-lãng nghề võ. Vì chịu ảnh hưởng
của văn-minh Trung-quốc, các võ tướng Việt Nam ắt phải đọc những binh thư của
Trung-quốc điều ấy cũng hợp lẽ, vì các binh-thư ấy rất có giá-trị, không phải
riêng đối với Á-Đông, mà còn đối với thế giới nữa. Thử hỏi các binh-gia Âu-tây
ngày nay, ai mà không biết uy-danh của SUN TZE tức là Tôn-Tử?
Ngoài ra, các triều-đình Việt Nam cũng có san-định võ-kinh
riêng để cho các tướng sĩ học tập. Nếu chỉ kể những bộ nổi tiếng nhất thì đời
Trần có bộ Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền và bộ Binh-Thư Yếu-Lược của Hưng-Đạo Vương
Trần-Quốc-Tuấn, đời Nguyễn có bộ Hổ-Trướng Xu-cơ của Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ.
Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền là một binh-thư rất quí, thuộc loại
âm-dương học, không thể phổ-thông ra ngoài dân chúng, vậy ta không thể bàn-luận
điều gì. Nhân-Huệ-Vương Trần-khánh-Dư đề tựa sách ấy, viết như sau:
“Phàm dùng binh giỏi thì không cần bày trận, bày trận giỏi
thì không cần đánh, đánh giỏi thì không thua, khéo thua thì không mất.
“…Ngài Quốc công của chúng ta (tức là Vương Hưng-Đạo) xem
hoạ đồ của các nhà mà soạn thành một bộ sách, tuy chỉ chọn lấy các chỗ tinh-vi
nhưng sao lục đầy-đủ các chỗ cốt-yếu, loại bỏ các chỗ vụn vặt, rút lấy các chỗ
thực-dụng, đều lấy năm hành tương ứng chín cung thay nhau, phối-họp cứng mềm,
xoay-chuyển tuần-hoàn, lạ-lùng bất ngờ, về thần-sát thất-diêu {trời, trăng và 5
sao kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), hưng-thần ác-tưóng, tam cát ngũ-hung đều chỉ bày
rõ ràng…”
“Sách ấy dùng đã ba đời trăm đánh trăm thắng, cho nên đương
thời có thể làm rúng-động quân Hung-nô (Mông-cổ) ở phía bắc, làm cho nước
Lâm-Ấp ở phía tây phải khiếp uy, nên sách này được biên-chép làm của gia~truyền
không được phép tiết lộ ra ngoài.
“Có lời di-chúc (của Vương Hưng-Đạo) dặn rằng : Về sau con
cháu, bồi-thần học được bí thuật nay phải thi hành cho sáng suốt không được bày
trận ám-muội hồ đồ.
“Lại có di-văn (của Vương) dạy rằng : nếu không tuần lời
dạy..thì sẽ chiêu vời tai-ương hoạn-nạn cho tới con cháu, đó là bởi tiết lộ
thiên-cơ vậy”
Xem lời dặn của Vương, ta đủ hiểu rằng Vạn-Kiếp Tông
Bí-Truyền là sách thuộc loại âm-dương-học chỉ dành riêng cho các bậc quân-su để
cha truyền con nối mả giữ nước. Thêm nữa, danh-từ Vạn-Kiếp Tông tỏ rõ ý-chí của
Vương muốn lập một tông-phái võ học tại Vạn-kiếp và Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền
chính là binh-phả biệt-truyền của môn-phái.
Trái với bộ sách bí truyền nói trên, bộ Binh-thư Yếu-Lược là
một võ-kinh thông thường có thể phổ-biến trong giới tướng-sĩ. Trong bài hịch
răn dạy các tỳ-tướng, Vương há chăng nói “Các ngươi nếu chuyên tập sách này,
nghe lời dạy bảo của ta, ắl đó là duyên thầy-trò kiếp xưa; còn nếu khinh bỏ
sách này, trái lời dạy bảo của ta, ắt đó là mối cừu-thù kiếp trước!” hay sao?
Tại sao các bộ Võ-kinh của triều Tống rất được thông-dụng mà
Vương lại còn soạn ra bộ Binh-Thư Yếu-Lược?
Hoặc Vương thấy các võ-kinh của Trung-quốc không được đầy đủ
nên Vương muốn thêm vào những kinh-nghiệm của mình chăng?
Hoặc Vương muốn người Việt phải có óc tự-lập, tự chủ nên
Vương tự soạn ra một bộ binh-thư riêng biệt cho giới võ tướng Việt-nam chăng?
Dầu sao, bộ Binh-Thư Yế-Lưọc đánh dấu một giai-đoạn mới cho
nền binh-học Việt-nam bắt đầu muốn giữ một bản-sắc độc lập
Một điều đáng để ý là bổn Binh-thư Yếu-lược còn lại ngày nay
có chứa nhiều sự-kiện lịch-sử liên-quan đến hai triều Lê, Nguyễn: điều ấy chứng
tỏ rằng triều Nguyễn cùng dùng sách ấy và đã thêml vào nhiều đoạn mới. Vậy ta
có thể kết-luận rằng :
•Binh-thư Yếu-Lược
là bộ võ-kinh đầu tiên của Việt Nam
được thông-dụng trong
các triều Trần, Lê, Nguyễn.
Về sau, xu-hướng tự-lập, tự-cường của nền binh-học Việt Nam
càng được nhận thấy rõ ràng trong cuốn Hổ-Trướng Xu-Cơ mà Lộc-Khê Hầu
Đào-Duy-Từ" đã tự soạn ra cho triều Nguyễn khác hẳn các binh-thư xưa, sách
này được chia ra 3 phần theo thuyết tam-tài : Thiên-tập, Địa-tập và Nhân-tập.
Sau đây xinh trích dẫn một đoạn trong bài tựa của Hầu Tước
Lộc-Khê ở đầu cuốn Hổ Trướng Xu-cơ:
“Người xưa có nói rằng :
- Nếu đùng chiến tranh để ngăn ngừa chiến tranh dầu phải
đánh nhau, việc ấy cũng nên làm.
- Nếu giết người để yên người, dầu phải giết người, việc ấy
cũng nên làm.
“Nhưng trong việc chinh-chiến có rất nhiều phép tắc, sát
phạt có nhiều phương-sách chứng giống nhau. Có trí thì dùng trí, không trí thì
dùng sức.
“Việc đánh phá các chỗ vững bền, cầm bắt tinh-binh của địch,
cỡi ngựa múa roi, bỏ công-lao ra sống vào chết, nuôi chí thịt nát xương tan, đó
chẳng qua là làm kẻ võ dũng, đâu có thể địch lại muôn người? Đó gọi là không
dùng trí thì dùng sức vậy!
“Nay tôi thà đấu trí hơn là đấu sức, do đó ngẩng mặt tuân
theo diệu ý của thánh hiền đời trước, cúi xuống nhờ cậy vào tài năng khéo-léo
của các bạn lành, kiếm hết các kinh sách lạ-lùng trong thiên-hạ, tìm xem các
phép-tắc khác thường xưa nay, rửa nghiên thấm bút, cúi chép một sách đặt nhan
đề là Hổ-Trướng Xu-Cơ Trong sách ấy, bất cứ là hoả-công, thủy-chiến, trận rắn,
trận chim, chiến lược, mưu-kế, các việc cơ-mật của binh-gia không chỗ nào mà
không hoàn bị. Nếu tướng súy có cơ trí học được sách ấy thì có thể lập được
công danh đứng trên muôn người đem lại thái bình trong mới hồi trống ! Vậy nên
trân-trọng giữ-gìn sách ấy mà chớ truyền thụ cho người ngoài vận-dụng.”
Lý-do chính đã thúc giục Hầu-tước Lộc-Khê soạn ra bộ
Hổ-Trướng Xu-Cơ là các binh-thư của Trung-quốc quá rườm-rà và khó hiểu. Ta hãy
xem một đoạn trích-dẫn từ bài tựa của ông Cao-Khuê Chiêu-Dương trong bổn chép
tay vào đời Đồng-Khánh.
“Nếu có ai hỏi tôi rằng : Phàm việc còn mất của xã-tắc, việc
mừng lo của nước của Vua đều tùy-thuộc vào một nguời tướng-suý. Cho nên làm
tướng mà học binh-pháp thì cốt phải tinh-thông chớ chẳng cần học nhiều, cần
phải mạnh-dạn mà phải gom kiêm mưu-trí nhờ đó mà khi ra khỏi cửa thành,
tướng-suý có thể nắm vững then chốt phép cầm binh, là nơi treo giữ số-mệnh của
ba quân. Nếu nghề võ chẳng được tinh-thông mà tướng-súy lại thiếu mưu-trí thì
trong khoảnh-khắc lật nguợc bàn tay, giang-son phải chịu đổi dời, như thể chẳng
đáng cẩn-thận hay sao?
“Vả lại các sánh đã soạn ra không phải là không hay nhưng
lời-lẽ quá rườm rà, rắc rối, nhiều chỗ tinh thô chẳng giống nhau, khiến cho
độc-giả như ngồi đáy giếng nhìn lên trời cao, thả một con thuyền lênh-đênh trên
biển cả, mờ-mịt không biết nguồn cội ra sao, mênh-mông chẳng dò ra manh-mối,
đành phải chịu như thế vậy !
“Cho đến triều ta, có ngài Lộc-khê có chí-khí ngang-nhiên
khác thường cứ xem ngài phò-tá Vua Thánh-tổ nhà ta. Để danh tiếng nghĩa-đũng
lại ngàn năm mang lại thái-bình trong một ngày như thế trong thâm tâm của ngài
thực có chứa muôn ngàn giáp-binh vậy. Đến khi ngài trả ấn về hưu, vui cạnh núi
vườn, cứ xem cái xu-hướg ấy cũng đã biết rằng ngài đứng ngang hàng với các bậc
Y Doãn, Lữ-Vọng, Tử phòng, Khổng-minh vậy.
“Đến khi năm trời sắp hết lại sợ tâm-thuật của ngài không
được truyền lại. tài-trí thần-diệu phải bị chôn vùi nhưng may-mắn có ông
Triệu-Điền lanh-lợi hơn người được ngài đích-thân truyền dạy, rồi tới hai vị
Bửu-Thúc, Cao-Lượng khám-phá các điều sở-học của ngài Lộc-Khê và của ông
Triệu-Điền mà người đời chưa từng biết, đem ra truyền dạy cho nhau, thực là của
báu của trời đất, há dễ ai mà thâu lượm hết được.
“Lại gặp bạn tôi là Hà-Hồ cũng ham-thích môn học bí truyền,
nên chẳng tiếc công-lao, rửa nghiên thấm bút, chép ra một pho chia thành ba
cuộn gọi là Hổ-Trướng Xu-Cơ, trong đó tỏ bày tất cả then máy huyền-bí của
trời-đất, gom hết tinh-hoa của vũ-trụ, nên tôi không thể nén lòng phấn-khởi,
vui~-mừng mà cũng viết thêm ít lời như trên đây”.
Ta xem trên thì đủ hiểu rằng, sau Binh-Thư Yếu-Lược, bộ
Hổ-Trướng Xu-Cơ là Võ Kinh mới nhất của Việt-nam vậy.
Như thế đã từ lâu, tổ-tiên của chúng ta muốn sáng-tạo một
nền binh-học độc-lập. Óc tự-lập, tự-cường ấy không phải là không chinh-đáng.
Đọc lịch-sử, ta thấy rằng ngoài việc bình Chiêm, sáp-nhập Chân-lạp, đánh Xiêm,
Lào để mở rộng bờ cõi, nước Việt-Nam nhỏ bé đã lập nhiều chiến-công hiển-hách
để giữ-gìn non sông:
Đời Ngô phá Hán
Đời Lý đánh Tống
Đời Trần bình Nguyên
Đời Lê đuổi Minh
Đời Tây-Sơn
phá Thanh
Và trong khoảng 20 năm gần đây quân Việt mặc dầu ở phe-phái
nào cũng đều chứng tỏ khả năng chiến-đấu khác thường khiến cho hoàn-cầu phải
mỗi ngày chú ý đến chiến-cuộc ở Việt Nam.
Nếu những chiến-công kể trên chỉ là những thắng-lợi lẻ tẻ và
tạm thời, do sự may-mắn đem lại thì ta không nên vội tự khen. Thực ra, những
chiến thắng ẩy chỉ lầ những đoá hoa tô-điểm cho những chiến-cuộc có thể kéo dài
hàng chục năm trời.
Chính những chiến cuộc lâu dài này mới chứng tỏ sức
chiến-đấu dẻo dai và sức sống mãnh liệt của người dân Việt.
Không cần phân-biệt kết-cuộc thành hay bại, ta hãy xét các
sự kiện sau đây:
- Hai Bà Trưng-Trắc, Trưng-Nhị đánh quân Hán, hạ được 65
thành-trì, tự lập làm Vua, đánh nhau với danh-tướng Mã-Viện gần 3 năm mới chiu
tử-tiết.
- Bà Triệu-Thị-Chinh cầm đầu l.000 thủ-hạ đánh nhau với quân
Hán trong 3 năm mới chịu tử-tiết.
- Lý-Nam-Đế rồi tiếp theo là Triệu Việt Vương đánh nhau với
quân nhà Lương trong 50 năm mới chịu thua.
- Dương-Diên-Nghệ rồi tiếp theo là Ngô-Quyền phải đánh nhau
với quân Nam-Hán trong 7 năm mới giành độc-lập
- Lý-Thường-Kiệt đánh nhau với quân Tống gần 2 năm.
- Trần-Hưng-Đạo phải đánh nhau trong 5 năm với hai đạo quân
Mông-cổ mới đuổi chúng về nước.
- Lê-Thái-Tổ phải đánh nhau gần 10 năm với quân Minh mới
khôi phục giag-sơn.
- Nội-chiến Lê-Mạc 60 năm
- Nội-chiến Trịnh-Nguyễn : 45 năm
- Tây-Sơn đuổi Nguyễn, Trịnh : 17 năm
- Nguyễn đuổi Tây-Sơn : 24 năm
- Chiến-cuộc Việt-Pháp-Mỹ : gần 20 năm.
Xem thế, ta thấy rằng hình như Trời bắt-buộc nước Việt phải
trãi qua nhiều cuộc chiến-tranh lâu-dài để khiến cho dân Việt có một truyền thống
chiến-tranh trong huyết-quản. Do đó, dân Việt có một định mệnh khác thường :
Người Việt phải là một nông dân và là một chiến sĩ.
Sau bao cuộc chiến tranh tàn-phá, dân Việt lại sinh-sôi
nảy-nở, bành-trướng thêm, lại càng làm cho thế-giới biết rõ mình hơn và sắp
bước vào giai-đoạn xây-dựng một nền văn-minh lành-mạnh truyền-bá khắp thế giới.
Với một định-mệnh khác thường như thế, dân Việt phải rút sức
mạnh tự mình, do đó phải có một nền võ-học tự-cường và một nền văn học tự chủ.
Ngày nay trong lúc nhân-dân đang tranh-đấu để giang-sơn được
độc-lập và thống-nhất, việc binh-học tỏ ra cần-thiết hơn bao giờ hết. Vậy đã
đến lúc nên nghĩ tới việc san-định một võ-kinh hợp-thời cho quân-lực Việt-nam,
thâu tóm mọi kiến-thức xưa nay. Để dọn đường cho các nhà binh-học tương-lai,
tôi nghĩ rằng việc tham-khảo các binh-thư thời trước chưa hẳn là hoàn-toàn
lỗi-thời và vô-ích.
Tôi vốn là người tân học nhưng đứng trước sách cũ của tổ
tiên, chẳng dám chê-bai và khinh thường bởi nghĩ rằng : Dầu hay dấu dỡ, đây là
di-thư của tổ-tiên. Nhờ đó tổ-tiên của chúng ta đã dựng nước và giữ nước, va
nhờ đó mới có chúng ta ngày nay.
Chúng ta nên trân trọng giữ nó như của báu quốc truyền vậy.
---o0o---
Đối với tôi việc phiên dịch sách Binh Thư Yếu Lược này của
Vương Hưng-đạo chẳng những làm sống lại một thời dĩ-vãng xa-xăm, bấy giờ
nhân-dân Việt-nam bị lôi-cuốn vào một cuộc tử chiến với quân Mông-cổ, mà còn
nhắc lại cho chúng ta nhớ lại một đường lối tu-tập đã bị bỏ quên từ lâu: đó là
Thánh đạo.
Bởi thế ở đầu sách tôi có viết bài tiểu sử và đức độ của
Vương đề cụ-thể-hóa nền thánh-đạo của nho-học Á-đông . Về bài này, tôi không có
may-mắn tham-khảo được nhiều sách mà chỉ đọc qua-loa vài đoạn trong ba bộ sách
là bộ Đại-Việt Sử-Ký của Ngô-Sĩ-Liên, bộ Khâm Định Việt-Sử Thông Giám Cuơng Mục
và bộ Lịch-Triều Hiến-Chương Loại-Chí (phần Nhân-Vật Chí) của Phan-Huy-Chú
Nhưng về truyện của Vương, hai bộ sau không chép chi-tiết nào khác bộ trước,
thành-thử rốt cuộc tôi chỉ sử-dụng bộ thứ nhất mà thôi. Tôi thành-thực nhận
rằng đó là một khuyết-điểm lớn và xin để dành việc thâm cứu cho các sử gia.
Để làm bài tựa cho bộ sách này, tôi có chép nguyên-văn bài
hịch của Vương và đưa ra một bản dịch tuy không hay bằng các bản dịch văn-hoa
đã biết nhưng sát nghĩa hơn để quý vị độc giả xem đối-chiếu với Hán-văn. Bộ
sách dịch này sẽ không hoàn thành được nếu không có sự trợ-lực của cựu
Thiếu-tướng Mã Nguyên-Lương ở Long Hoa đã kiểm-điểm giùm bổn Hán-văn, và Dật-Sĩ
Nguyễn-Phưóc-Hải ở Long-Khánh nhuận-đính giùm bản dịch. Vậy tôi xin ghi nơi đây
lời cảm-tạ đối với hai tiên-sinh, vùa là thầy hay vừa là bạn quý.
Tôi vốn là người tân-học không thuộc sử kinh, lại không
thông binh lược, nên việc phiên-dịch không thể tránh khỏi có nhiều sai-lầm. Vậy
tôi xin nhận lỗi trước và thành-thực mong quý vị độc giả bố-thí lời chỉ-giáo.
Ấp Tây Nhì, Xã Phú Nhuận,
Quận Tân Bình, Tỉnh Gia Định,
Mười Sáu Tháng Giêng Kỷ Dậu.
LÊ XUÂN MAI
kính đề
QUYỂN THỨ NHỨT
TƯỢNG TRỜI
1. PHÉP BÍ-MẬT XEM
SẮC TRỜI VÀ SẮC MÂY TRONG TIẾT NGUYÊN ĐÁN
Tiết Nguyên-đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý lên
lầu bí mật xem bốn phương.
Nếu thấy khi mây màu vàng thi năm ấy thóc lúa trúng mùa lớn.
Nếu thấy khí mây màu trắng thì có việc binh-biến xảy ra, nếu
chỉ có một vầng mây hiện ra một mình ở hướng nào thì ở hướng ấy có nạn
đao-binh.
Nếu thìn bốn phương không thấy mây mà chỉ thấy hai màu đỏ
trắng liền nhau, thì màu đỏ tượng trưng cho máu, màu trắng tượng-trưng cho chất
kim (gươm, đao) hai màu ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy sẽ dấy loạn.
Màu xanh là điềm có nạn gió bão, mầu đen là điềm có nạn mưa
lụt ; nước nào có điềm ấy thì phải phòng-bị
2. PHÉP XEM KHÍ HẬU
BỐN MÙA :
NGÀY LẬP-XUÂN : Vào giờ dần, giờ mão, nếu ở hướng đông có
mây trắng hiện ra như là trời thòng binh-khí xuống, xứ nào có điềm ấy thì sẽ
sinh loạn lớn.
Nếu mây có hình-đạng như thanh kiếm treo ngược, đầu trên
bằng, đầu dưới nhọn, thì xứ ấy sẽ chết hết, đó là điềm xấu. Mây ấy ở cao thì
nạn còn chậm, mây ấy ở thấp thì nạn chết mau đến. Trong mọi trường-họp đêu phải
lấy trăm phép toán thêm vào để biết chính-xác hơn.
NGÀY LẬP-HẠ : Vào giờ tý, giờ ngọ, nếu thấy ở hướng nam có
mây đỏ như là binh trời bày việc chiến-tranh, hoặc giống như chỉa dáo, có hình
dạng như khăn tay màu hồng thì ở hướng ấy có việc đao-binh xảy ra trong năm ấy,
không đợi tới năm sau.
NGÀY LẬP THU : Vào giờ thân, giờ dậu, nếu thấy ở hướng tây
có mây trắng mọc thẳng ngay lên, nếu ở tiết lập-thu thì trong năm ấy về hướng
tây có binh dấy loạn.
Nếu vào giờ ngọ mà có mây trắng chắn ngang giữa trời như là
tiến binh lập trận thì sẽ có binh dấy loạn.
NGÀY LẬP ĐÔNG : Vào giờ tý, giờ sửu, nếu ở hướng bắc có mây
trắng hình dạng như chim thì ở dưới hướng ấy trong năm tới, vào tháng tư sẽ có
việc đao-binh.
Nếu mây trắng có hình-dạng giống như Hồ-binh bày trận tiến
binh thì năm tới vào thắng bảy xứ ấy sẻ nổi loạn. Hễ nghe có loạn thì phải
chuẩn-bị gấp rút việc binh-mã
3. PHÉP XEM MÂY BAY
ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI.
Mây là khí núi nhân vì gặp đá mà bốc lên, nên gọi là mây.
Sách Cấm-thư nói rằng : Ngày Nguyên-đán vào giờ tốt bậc chủ-tướng nên đi lên
lầu xem-xét.
Bốn phương trong sáng mà chỉ có một đám mây xanh hiện ra
giữa. trời thì thiên-hạ sẽ đói kém mất mùa.
Nếu lâ mây trắng, sẽ có quốc-tang.
Nếu là mây đỏ sẽ có đổ máu, thiên-hạ đều dấy binh, các giống
mọi rợ ở hướng đông và ở hướng bắc sẽ xâm-phạm biên-giới.
Nếu là mây đen, sẽ có mưa lụt.
Nếu là mây vàng đó là điềm lành.
Nếu ở bốn phương trời có gió bụi màu đỏ bay đầy núi sông thì
sẽ có mưa.
4. PHÉP NGHE SẤM SÉT
ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI.
Sấrn là trống của trời, nổ ra thì làm cho người ta sợ-hãi
tới muôn dặm.
Nếu tiếng sấm phát ra hòa nhã khác thuờng thì trong năm ấy ở
hướng có tiếng sấm sẽ được an-ổn.
Nếu sấm dội kinh-khủng thì bên chủ nên chuẩn-bị việc binh vì
sẽ có giặc gây loạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng chấn (đông), sẽ thấy cây-cối tốt-tươi,
năm lành, nhiều sương.
Nếu sấm động ở hướng ly (nam), sẽ có đại-hạn (nắng lâu không
mưa).
Nếu sấm động ở hưóng khôn (tây-nam), sẽ có tai-nạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng đoài (tây), sắt sẽ trở nên quí-báu, nạn
đao binh sẽ xảy ra.
Nếu sấm động ở hướng càn (tây-bắc), đó là điềm xấu.
Nếu sấm động ở hướng cấn (đông-bắc), sẽ có nhiều bệnh và nạn
đao-binh.
Nếu sấm động ở hướng khảm (bắc), năm ấy sẽ mưa nhiều.
Tại nơi đang hành-binh, nếu quân đang sợ-hãi thì lúc nghe
sấm sẽ thua lớn; nếu nghe sấm trước rồi mới sợ hãi sau, quân sẽ bi chấn-động và
kiếm chỗ ẩn-núp.
5. PHÉP NGHE SẤM NGÀY
NGUYÊN ĐÁN:
Tiếng sấm hòa-nhã thì thiên hạ an-ổn và được mùa.
Nếu ánh chớp chói mắt, sấm nổ điếc tai thì thiên-hạ sẽ
rối-loạn, nên lo gấp việc binh-bị, thấy điều ấy chẳng khá khinh-thường.
Sấm-sét là do âm-dương biến-chuyển và cảm-ứng nhau mà sinh
ra.
Tướng đang hành binh, nếu sấm nổ đằng sau lưng thì binh sẽ
gặp nhiều điều tốt lợi ; nếu sấm nổ ở trước mặt thì binh sẽ gặp điều xấu lắm.
Nếu sấm nổ trước rồi mới thấy sét đánh thì tiểu nhân thịnh
mà quân-tử suy ; nếu thấy sét đánh trước rồi mới nghe sấm thì quân tử thịnh mà
tiểu-nhơn suy.
Sấm thuộc âm, sét thuộc dương.
Tháng giữa xuân (tháng hai) sấm bèn phát, tháng giữa thu
(tháng tám) sấm bèn ẩn, nếu nghịch thời sẽ có việc đao binh nổi lên.
6. PHÉP XEM HƯỚNG GIÓ
THỔI LÊN TRỜI HAY XUỐNG ĐẤT
Gió từ hướng khảm (bắc) – thổi lại gọi là hắc-tuyền-phong
(gió suối đen) : năm ấy không có nạn đao-binh, nhân dân bị bệnh-tật và giữa năm
chết về bệnh ôn dịch.
Gió từ hướng cấn (đông-bắc) thổi lại gọi là
huỳnh-tuyền-phong (gió suối vàng) : năm ấy không có việc binh, cọp beo xuống
đòng nội làm tổn hại nhân dân.
Gió từ hướng chấn (đông) thổi lại gọi là vọng-nữ-phong (gió
gái trông chồng) : năm ấy không có việc binh, sinh~mạng của nhân dân bị
nguy-khốn.
Gió từ hướng đoài (tây) thổi lại gọi là kim-liên-phong (gió
sen vàng) : năm ấy không cô việc binh, gái phạm vào tâm tư của trai, dân.chúng
bị chết về bệnh ngặt.
Gió từ hướng ly (nam) thổi lại gọi là hỏa-huyết-phong (gió
máu lửa) : năm ấy nắng lâu không mưa, có nạn đao-binh.
Gió từ hướng khôn (tây-nam) thổi lại gọi là thai-bệnh-phong
(gió bệnh thai nghén) : năm ấy không có việc binh, đàn-bà nhiều người chết vì
sinh-đẻ.
Gió từ hướng càn (tây bắc) thổi lại gọi là tang-phục-phong
(gió tang-phục) : năm ấy người người chét gấp, có dân nổi loạn.
Nếu hành-quân tới trận, gặp năm tuổi của tướng-súy, gió từ
hướng sao Thái-tuế thổi lại gọi là đại sát phong (gió giết nhiều) thì tai-hoạ
đang đến gấp.
7. PHÉP BÍ MẬT DẠY
CÁCH XEM GIÓ TÁM HƯỚNG
* Thứ nhứt: Gió dữ sắc đỏ : Nếu trong nưởc có hiền thần bị
tù-tội, thì người ấy thình-lình thấy sắc đỏ hiện lên khắp mặt.
Bỗng dưng trời đất biến ra hồng
Hiền-sĩ bất ngờ vuớng ngục gông
Kỳ-hạn không ngoài trăm ngày tới
Nước chia hai xứ quyết tranh hùng
* Thứ hai: Gió bắc sắc vàng : nhìn không thấy người, ắt có
trung-thần bị tội chết : gió từ hướng bắc thình-lình thổi tới làm cát bụi sắc vàng
tung bay là đó vậy :
Bỗng dưng trời đất biến ra vàng,
Tất có trung thần phải chết oan,
Hạn tới không ngoài ba tuần nhật,
Bốn phương yêu quái khởi làm càn.
* Thứ ba: Gió sắc đen : Hoặc ban đêm hoặc ban ngày, trời
quang tạnh mà mặt trời, mặt trăng và các sao vẫn không sáng, gió ấy bỗng thổi
đến làm cho trời đất u ám ; trong vòng 300 ngày (10 tháng) sẽ có mọi-rợ miền
nam và miền đông xâm-lấn biên giới.
Gió đen bỗng thổi giũa trời quang
Trời đất sao trăng phải tối-tăm
Trăm ngày chưa tới là kỳ-hạn
Man ải ắt khởi cuộc xâm lăng !
* Thứ tư: Gió giết giặc : (sát tặc phong) : Hoặc tại
bản-dinh hoặc ở giữa trận, gió làm cho nhành reo, cây gãy, chốc chốc lại thổi,
phầng kè ngày đêm, mỗi ngày đi được ba mươi dặm.
Giữa trận tùy thời ta hay theo
Nhành rung cây gãy, gió kêu gào
Ba quân gấp tiến theo chiều gió,
Gặp thời giao-chiến, lập công nhiều !
* Thứ năm: Gió dữ thừa lệnh quỷ-thần (thần lệnh ác-phong) :
Bỗng thấy gió ẩy uyển~chuyển thồi tới luôn cả ngày đêm.
Giữa ngày bỗng nổi gió thần-phong,
Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung,
Trước đường khòng quá muời dặm đất,
Phải phòng bên địch phục binh-hùng !
* Thứ sáu: Gió làm bại binh : (Bại binh-phong) : Hoặc mau
hoặc chậm, thồi ngược tới trước mặt ta, chốc chốc lại thổi, trận này kbó định :
Dàn binh bỗng thay gió bại binh,
Rát mặt bụi mù gió lớn kinh.
Ba quân truyền lệnh lui binh-mã
Giao-chiến thời này ắt hại mình !
* Thứ bảy: Gió nóng ác hại (ác-noãn-phong) : Gió nóng như
lửa xuyên qua người, đang yên-ồn bỗng nổi lên, về mùa đông cũng chảy mồ-hôi,
trong bụng hơi nóng trong vòng trăm ngày thiên-hạ sẽ đổ máu.
Bỗng trận cuồng-phong thổi nướng người
Nóng ran sĩ tốt đẫm mồ hôi
Trăm ngày chưa tói, phòng đánh lớn
Máu đổ xương rơi ắt loạn rồi !
* Thứ tám: Gió mưa ác hại (Thủy-ác-phong) : Gió phá-hoại tới
ruột xương người đang yên-lặng bỗng gió thổi tới vùn vụt, lạnh buốt như sương
tuyết, sĩ-tốt không mở mắt ra được Binh-mã phải giải-tán, chắc-chắn sẽ thua.
Lạnh thấu ruột xương, ấy thủy-phong,
Thuyền, cầu thủy trận cũng toi công,
Ba quân truyện lệnh không nhìn rõ
Binh phục bên đường. phải khá phòng .
8. PHÉP XEM GIÓ LÀNH
:
Khi có gió lành (báo điềm lành) thì ngày trong sáng, hơi gió
hòa-nhã ; theo phần ngày nào, phần tháng nào, phần giờ nào, hoặc theo phương
sinh-khí nào mà tới thì lòng người vui đẹp, nước được điều tốt lành.
Về ngày, âm đương là điều bí-yếu: các ngày giáp, bính, mậu,
canh, nhâm thuộc về hướng phần dương ; các ngày ất, binh, kỷ tân, quí thuộc về
hướng phần âm. Hướng quí là hướng dương.
9. PHÉP XEM GIÓ DỮ :
Khi có gió báo nạn dữ thổi tới, thì ngày đó nặng nề u-ám,
khí trời tối-tăm, bế-tắc, tiếng gió gào thét như là giận-dữ, cát bay lá rụng,
gió theo phương dữ mà thổi đến. Nên gấp lo việc binh-bị để giữ kỹ, thế nào cũng
có giặc tới.
10. PHÉP BÍ MẬT XEM
CHÍN THỨC MÂY:
* Thứ nhất: Trời có sắc xanh biển : Trời mờ-mit, hỗn-độn,
xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt là giặc tây nhung xâm-phạm
biên-giới, nước trung-ương chẳng được yên-ổn :
Thứ nhút, trời xanh thẩm lạ-lùng
Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công,
Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng,
Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung.
* Thứ nhì: Trời có sắc hồng : Điềm này chủ về việc
đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi
sắc hồng ấy hiện ra thì trung-thần bi chết oan.
Tự-nhiên trời đất biến ra hồng,
Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông,
Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi
Trăm ngày hai nước cũng giao-phong
* Thứ ba: Trời có sắc vàng : Trung-thần, mưu-sĩ bị chết oan.
Nếu dùng chín người để xem-xét sắc trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu
vàng.
Đang yên, tròi đất biến ra vàng,
Ắt có trung-thần phải chết oan,
Máu lan đầy đất trong muời tháng,
Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn.
* Thứ tư : Trời có sắc đen : Điềm này chủ về việc trong vòng
ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ . âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám.
Đang yên, trời đất biến đen sì
Ắt có kẻ nao mưu loạn chi
Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc
Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi .
* Thứ năm : Trời làm sợ hãi vô cớ (sợ hụt) : Trời phát ra
tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng
mà sinh ra như vậy.
Cây có điều hòa lặng-lẽ bao
Tiếng vang như sấm tự trời cao
Kinh-hoảng không quá ba tuần nhựt
Bốn phương cùng khởì việc binh-đao.
* Thứ sáu : Trời mở cửa : Nghe tiếng động lan ra giống như
tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng, trong một trăm ngày lệnh
chúa hưng vượng, bèn trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa
trời mở về phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không phải sấm.
Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh,
Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh
Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm.
Trăm ngày chưa tới ắt ra binh,
Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh,
Hưng lệnh trời ban xuống nước mình, .
Để khiến ba quân tùy tướng lệnh,
Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh.
* Thứ bảy : Trời thòng binh khí : Khí mây thòng xuống ở chân
trời, như là dao cưa. Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn.
Mây trời hình:dạng giống cưa dao,
Thòng xuống chân trời, giặc bại mau
Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến,
Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu.
* Thứ tám : Khí trời không điều hòa : Bốn mùa đều trái
thời-tiết :
Hè làm tiết đông, bắc-phiên phản,
Đông làm tiết hè, ắt chinh nam,
Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy,
Xuân làm tiết rhu, giặc tây tràn.
* Thứ chín : Trời sinh biến ở hướng càn : Chủ về việc
hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp
lặn còn cao một trượng thì có sắc đỏ.
Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây
Âm dương có biến, chủ không hay
Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy,
Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai.
11. PHÉP XEM HAI MẶT
TRỜI MỌC KỀ NHAU.
Hai mặt trời cùng mọc thì thiên-hạ sẽ động binh, kẻ vô-đạo
bị tiêu diệt, hai quân đánh nhau có sức mạnh ngang nhau.
Hai mặt trời cùng mọc thì sẽ có đánh lớn, thành-trì bị
phá-hoại, đồng nội chia ra nhiều phần mà đánh nhau.
Hai mặt trời mọc kề nhau ở nước nào thì nước ấy gặp loạn
lớn, nạn dữ .
Chất tinh trắng của mặt trời rơi xuống đất xứ nào thì ở xứ
ấy bên chủ (quốc-vương, chánh-phủ) phải thất-bại.
Dưới mặt trời có ánh-sáng giống như chân chim thì xứ bên phe
chủ bị tai-ương, việc binh thất-bại, quân-đội tiêu-diệt.
Trong mặt trời có vết đen thì vua tôi chống đối nhau, trăm
họ gặp việc xấu.
12. PHÉP XEM CÁC LOẠI
NHẬT-THỰC:
Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời.
Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và
ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường
tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực.
Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà
Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn.
Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi
là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng
không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu
gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối.
Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành.
Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ
việc giao chiến.
Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh
xảy ra và phe khách được thắng.
Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có
binh dấy loạn.
Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và
rợ di (phía đông) nổii loạn, nên gấp lo việc binh-bị
Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu,
kỷ thì sẽ có việc đao-binh.
Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì
không nên tính tới việc binh.
13. BÀI THƠ MẶT TRĂNG
LẠC ĐƯỜNG :
Trăng lạc giữa trời, chúa chẳng hay
Hậu-cung say đắm may nàng phi,
Ba tuần chưa tới binh liền dấy
Âm dương sai lạc khiến vong nguy.
14. PHÉP BÍ-MẬT XEM
TRĂNG :
Mặt trăng mới mọc ma đi về hưởng bắc đó gọi là “cung giương”
thì có kẻ âm-mưu vào thành khuấy rối.
Nếu mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen chắn ngang như chữ
nhất thì trong ngày ấy có mưa.
Mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen ở giữa có dạng như cầm
thú thì:
- nếu vào ngầy giáp ất sẽ có hại về hướng đông;
- nếu vào ngày bính đinh, sẽ có hại về hướng nam;
- nếu vào ngày mậu kỷ sẽ có hại về nước trung-uơng;
- nếu vào ngày canh tân, sẽ có hại về hướng tây ;
- nếu vào ngày nhâm quí sẽ có hại về hướng bắc.
Trong mặt trăng có sao lọt vào sẽ thua quân, chết tướng.
Có mây trắng như rắn rít xuyên qua mặt trăng thì sẽ có tướng
chết, quân thua.
15. PHÉP BÍ-MẬT XEM
TRĂNG TRÒN KHUYẾT :
Mặt trăng giống như tròn nhưng chẳng phải tròn, giống như
khuyết nhưng chẳng phải khuyết, lặn mà chẳng lặn, ắt có gian-thần mưu phản.
Mặt trăng giống như tròn mà chẳng phải tròn, bờ trên và bờ
dưới đều bị khuyết, mọc tại Phù-tang, lặn tại Phù-tang, đó là điềm loạn-thần
làm cho nước nhà bại-vong.
16. PHÉP XEM CÁC LOẠI
NGUYỆT-THỰC :
Binh chưa đánh mà đã gặp nguyệt-thực thì đến khi đánh, binh
ấy sẽ được thắng lớn.
Binh đang ở trong mà đã gặp nguyệt thực, điều ấy chủ về việc
có tai ương.
Mặt trăng đang tròn đầy mà bi ăn, điều ấy chủ về việc binh
sẽ bị chết ở đồng nội.
Mặt trăng bị ăn một bên thì tướng súy và bề tôi không còn
giữ đạo.
Mặt trăng bị ăn ở phía dưới thì công việc cửa tướng-quân mất
phép-tắc, lề-lối.
Nguyệt-thực mà có màu xanh thì ngũ-cốc trở nên quí-báu,
híếm-hoi, thiên~hạ đói kém.
Nguyệt-thực mà có mầu đỏ thì lúc khởi đầu lợi cho pbe khách.
Nguyệt-thực mà có màu vàng thì có việc lập chư-hầu thành
vương-quốc.
Mặt trăng bị ăn hết thì sẽ có quân thua tướng chết.
Hai mặt trăng cùng mọc thì thiên-hạ có loạn lớn.
Mùa xuân bi ăn về phía đông, mùa hè bị ăn về phía nam,mùa
thu bị ăn về phía tây, mùa đông bị ăn về phía bắc thì xứ gặp nguyệt-thực sẽ có
điều lo buồn về việc binh.
Mặt trăng đang bị ăn mà mọc lên thì chỗ đóng quân bi tổn
hại, lại thêm nữa có sự mất mát đồ-đạc, tướng chết, binh tan.
17. PHÉP XEM MẶT TRỜI
VÀ MẶT TRĂNG ĂN NHAU :
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày dần, ngày mão, thì lúa rẻ,
nhândân chiu thiệt-hại, nên khởi binh trước, lợi chủ mà hại khách.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày ngọ, ngày mùi, điều ấy chủ về
việc có trâu ngựa chết, binh dấy loạn tại phía tây đánh về phía đông.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày thân, ngày dậu, trong năm này có
khí độc gây ra nhiều bệnh.
Nguyệt-thực xảy ra trong ngày hợi, điều ấy chủ về việc
thiếu-thốn ngũ-cốc.
Nguyệt-thực xảy ra vào ngày tý, ngày sửu, điều ấy chủ về
việc đói-kém, loạn-lạc.
18. PHÉP BÍ MẬT XEM
ÂM DƯƠNG XÂM PHẠM NHAU :
Đường mặt trăng mọc lên và đi theo là:
- thanh-đạo về mùa xuân;
- bạch-đạo về mùa thu;
- xích-đạo về mùa hạ;
- hắc-đạo về mùa đông ;
- huỳnh-đạo trong bốn tháng 3, 6, 9, 12.
Nếu đế-vưong trái đạo thì mặt trời và mặt trăng chạy trái
đường, lấn âm, ôm dương, nên gọi là âm dương lấn nhau, thiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Nếu mặt trăng và mặt trời cùng đi ngang nhau, tbì có quan
đại-thần âm-mưu nổi loạn.
Nếu hai mặt trăng chọi nhau, điều ấy chủ về việc có hai vua
tranh thiên hạ.
Nếu mặt trời và mặt trăng chọi nhau điều ấy chủ về việc
trong nước có đổ máu, thiên-hạ có loạn lớn.
19. PHÉP BÍ-MẬT XEM ÂM DUƠNG BỐN MÙA :
Mặt trời có sắc trắng thì trong vòng chín ngày có rợ tây
nhung xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng có sắc trắng thì hiền-thần bi lao tù. Mặt trời có
sắc đỏ thì có âm-mưu dấy loạn trong. nước.
Mặt trăng có sắc đỏ thì loạn âm.
Đây là cách xem nhật nguyệt, âm-dương chậy loạn :
Mặt trời hè không theo nam-đạo, mặt trời đông không theo
bắc-đạo thì trong vòng trăm ngày rợ man. (phía nam), rợ di (phía đông) sẽ
xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng đi về hướng bắc gọi là mặt trăng trương cung, thì
có kẻ âm-mưu vào thành dấy loạn, bên ngoài giặc phiên. sẽ dấy binh xâm-đoạt
nước trung-ương.
20. PHÉP BÍ-MẬT XEM
SAO THÁI-BẠCH, THẦN-TINH :
Sao mai gọi là Thần-tinh, sao hôm gọi là Thái-Bạch đều là
một sao.
Sao Thái-Bạch bi vầng sáng mặt trăng che khuất, điều ấy chủ
về việc tướng súy phải chết.
Sao Thái Bạch được mặt trăng chở ở trên, thì trong năm ngày
sẽ có dấy binh.
Tháng tám ngày mồng ba, sao Thái.Bạch đi sai đường về phía
bắc thì sẽ có binh đánh nhau.
Sao Thái-Bạch đi về phía bắc thì nước nhỏ rối loạn.
Sao Thái-Bạch đi về phía nam thl nước lớn rối loạn.
Sao Thái Bạch ở trong mặt trăng cũng được gọi là
nguyệt-thực.
Sao Thái Bạch là điềm xấu của nhà Vua.
Sao Thái-Bạch mọc bên trái mặt trăng thì nước âm rối loạn,
mọc bên phải mặt trăng thì nước dương rối loạn.
Sao Thái-Bạch dính liền với mặt trăng thì trong ba năm có
việc đao-binh, mất đất.
Sao Thái-Bạch chạy vào mặt trăng thì tướng – quân phải chết.
Sao Thái-Bạch bảy ngày không mọc thí sẽ có nạn đao-binh
dữ-dội..
Nếu sao Thái-Bạch lên giữa trời mà sáng ra thl ba quân
tan-vỡ, loạn-lạc.
Nếu trên có một đế-tinh và dưới có một cá-tinh thẳng hàng
với nhau thì các quan phản Vua.
Nếu sao Thái-Bạch xuất hiện không đúng lúc thì Vua Tôi cùng
khởi binh.
Sao Thái-Bạch mờ tối thì chủ-tướng gặp việc xấu.
Sách Cấm-Thư chép rằng : Thái-Bạch Thần-Tinh cùng một ngày
mọc lên ở hướng đông, ắt có dấy binh ở hướng đông ; nếu cùng mọc lên ở hướng
tây, ắt có binh dấy lên ở hướng tây.
22. PHÉP BÍ MẬT XEM
SAO LÀNH :
Sao Cảnh Tinh là sao đức-tinh. Sao ấy lớn có hình-đạng như
nửa mặt trăng hiện ra vào ngày ba mươi, mồng một. Nước nào thấy được sao ấy thì
gặp nhiều điều tốt lành.
Sao Chu Tinh có sắc vàng, ánh sáng rực rỡ, nước nào thấy
được thì gặp điều tốt lành, ai thấy được thì người ẩy gặp điều tốt lành.
Sao Hàm-Dự sáng như sao Tuệ, nước nào thấy được thì gặp điều
vui mừng, rợ man phía nam vào cống-hiến.
23. PHÉP BÍ MẬT XEM
SAO BẮC-ĐẨU :
Bắc-đẩu có sao nhỏ thì thiên-hạ không yên, mọi việc chiến
tranh cùng dấy lên.
Bắc đẩu có khí đỏ xâm- nhập, điều ấy chủ về việc quân phải
thua lớn, nếu cử binh gấp thì có hại.
Nếu có mây trắng xâm-nhập, điều ấy chỉ về việc đổ máu nhiều.
Nếu có mây như xà-mâu ăn vào, điều ấy chủ về việc có loạn
lớn, nên ra ngoài.
Nếu có mây hình-dạmg giống như con heo, điều ấy chủ về việc
binh sợ-sệt vô cớ.
Nếu có khí vàng tản-mác ở đông, tây thì không nên dấy binh
động chúng.
Nếu có vết đỏ, đầu lợt, đuôi đậm, điều thấy chủ về việc quân
được thắng lớn.
Nếu có màu đỏ lạt thì đại thần làm loạn.
Nếu có mây ở phía đông và tây thì phe chủ cử đại-binh, phe
khách nên lui về mà giữ.
Nếu có mây đỏ xây thành bốn phía, điều ấy chủ về việc dấy
binh lớn.
Nếu hiện ra ban ngày thì xã-tắc không yên, bậc vương*giả gặp
tai-biến.
Nếu đang xoay trận mà đêm sau xem lại, thấy sao Bắc-đẩu có
mây xuyên vào thì ba mươi ngày sau lại bị một lần lữa.
Nếu đêm mồng một đầu năm có sắc hồng bọc quanh sao Bắc-đẩu,
thì hai mươi ngày sau sẽ có tướng chết quân bại.
Nếu cùng mọc ở hướng đông mà không gần nhau, từ hai mươi tới
ba mươi ngày không lặn vào hướng đông-nam thì có điều binh nhưng không đánh ;
đến mùa xuân, mùa hạ sẽ có dấy binh.
Thần-Tinh và Thái-bạch mọc ở hướng đông, gần nhau trong
khoảng ba bốn thước thì từ bai mươi tới ba mươi ngày có binh đánh lớn.
Thần-Tinh đi theo Thái-Bạch ở hướng đông thì có dấy binh ở
khắp nơi, từ đó đến sáu mươi ngày sẽ có dấy binh ồ-ạt.
Thái-Bạch từ Thần-Tinh đi ra thì lợi chủ.
Nếu mọc ở hướng đông thì lợi cho việc đánh hướng tây,binh ở
phía đông được thắng lớn ; nếu mọc ở hướng tây thì lợi cho việc đánh hướng
đông, binh ở phía tây được thắng lớn.
Thái-Bạch và Thần-Tinb cùng mọc ở hướng đông; Thái-Bạch mọc
trước, Thần-Tinb theo sau rồi vượt qua Thái-Bạch mà đi trước thì xứ ở dưới có
binh làm phản, không tới một năm sẽ thấy ứng-nghiệm.
Thần-tinh mọc ra như tờ giấy mà Thái-Bạch chưa mọc thì
tướng-quân phải chết; thấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ẩy có quân tan, tướng chết.
Thái-Bạch mọc ở hướng đông, Thần-Tinh ở phía trước mà không
mọc thì trong vòng năm mươi ngày có âm-binh dấy loạn trong nước.
Thái-Bạcb có vầng sáng thì trong thiên-hạ có ân-xá cho kẻ
phạm tội.
Thần-Tinh có vầng sáng thì sẽ có dấy binh và mưa lụt.
Vầng sáng của Thái Bạch và Thần-Tinh mà có ánh sáng màu vàng
che khuất. thì sẽ có quân tan, tướng chết.
24.- PHÉP BÍ MẬT XEM
SAO KHÁCH :
Các sách Thiên-văn đều nói : Chẳng phải thường được thấy mà
tình-cờ mới thấy được sao ấy trên trời, thì đó là sứ-giả của Thiên- Tinh Đại-đế
: sao ấy là then chốt của bí thuật xem điềm tốt xấu.
Hoặc mọc ở hướng tây, hoặc nằm ở hướng đông. Nếu thấy sao ấy
trong nhiều ngày thì có vỉệc to tát xảy ra mà lại có họa lớn; nếu chỉ thấy sao
ấy trong ít ngày thì có việc xảy ra nhưng không quan-trọng lắm mà tai-họa chỉ
nhỏ nhẹ mà thôi.
Hoặc hình-dạng biến ra sừng nhọn ắt là có âm-mưu gây loạn;
nếu sắc của nó mờ lạt, ắt là có binh nổi loạn.
Nếu có sao (nhỏ) mà thấy nó có sắc trắng thì sẽ có việc
binh-đao xảy ra trong địa-phận của nó ; nếu sao ấy có ánh-sáng như gai nhọn thi
xứ ở đỉnh bị quân tan, tướng chết, bị giặc lấn đất, đoạt ấp, thiên-hạ loạn lớn.
Hễ hằng ngày thấy sao ấy trên trời, không đúng vào giờ khắc
nào cả, thì sao ấy gọi là sao khách.
25. PHÉP BÍ MẬT XEM
SAO CHỔI :
Ngày xưa kinh của họ Sở nói rằng : Sao Tuệ gọi là sao chổi,
hoặc dài vài thước, hoặc dài một trăm thước, sao ấy hiện ra ắt có dấy binh.
Khi nhà Vua sắp gặp tai-họa mà sao chổi hiện ra, nếu sao ấy
chỉ về hướng nào thì đánh thắng về hướng ẩy, chỉ vào ta thì ta gặp điềm xấu,
chỉ vào người thì người chịu thất-bại, đều phải phân-biệt đia-phận mà đoán.
Sao chổi dài ba trượng thì việc xấu kẻo dài một năm, dài bốn
trượng trở lên thì việc xấu kéo dài ba năm, dài một trăm năm mươi trượng trở
lên thì việc xấu kéo dài bảy năm.
Sao chổi hiện ra ắt là nước địch chịu việc binh-biến. Sao
chổi lớn thì tai-họa lớn, sao chổi nhỏ thì tai-họa nhỏ, đuôi sao chổi mà cong
giống như lá cờ thì nhà Vua đẹp giặc bình-định bốn phương.
26. – PHÉP XEM CHUNG
NĂM SAO :
1) Sao Tuế Tinh có ý nghĩa là hướng đông, là mùa xuân, là
hành mộc, là đức nhân trong năm đức thường của con người (nhân, nghĩa, lễ trí,
tín), là vẻ mặt trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư). Đức nhân mà thiếu
sót, vẻ mặt mà hư hỏng, thời tiết mùa xuân mà bị trái ngược, khí mộc mà bị tổn
thương, ắt sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao Tuế-Tinh là chủ đầu tiên của phước may.
Về mùa xuân, được gọi là Nhiếp-Đề;
Về mùa hạ, được gọi là Trùng-Hoa;
Về mùa thu, được gọi là Ứng-Tinh;
Về mùa đông, được gọi là Kỷ-Tinh.
Sao Tuệ-Tinh tượng trưng cho bậc có đức, muốn được thấm
nhuần sự sáng suốt của người ấy. Bậc Vua của loài người mà có đức ắt là
Tuế-Tinh tới lui cùng thời với nhà Vua, nước ấy được phước may, không thể đánh
nước ấy được. Bậc chúa loài người mà không có đức, ham thích việc chiến tranh,
thì Tuế tinh cũng theo đó mà mờ tối, đổi màu làm cho tước vị bị tù hãm thất
thường; nếu nhân đó tai ương xảy ra thì nước nhà sẽ gặp việc xấu … (* Không
nhận ra chữ nên không dịch được), điều ấy chủ về trong năm ấy, ngũ cốc và người
sinh ra nhiều, nhà Vua sẽ trông nom đạo làm người ở khắp các nước chư hầu trong
thiên hạ.
Tuế Tinh ở vào nước nào, thì nước ấy được đức dầy, ngũ cốc
tươi tốt, bậc chúa loài người sống lâu và gặp điều tốt lành.
Nếu phước may xung khắc với Tuế Tinh thì có tai họa.
Tuế Tinh ở yên ở các trung độ thì tốt lành; nếu mờ tỏ không
chừng thì nước ấy có việc lo buồn, không thể bày việc và dùng binh.
2) Sao Oanh-Cảm-Tinh có ý nghĩa là hướng nam, là mùa hạ, là
hành hỏa, là đức lễ (trong ngũ thường), là sự thấy. Lễ nghi và sự thấy mà thiếu
sót, thời tiết mùa hạ mà bị trái ngược, khí hỏa mà bị thương tổn, ắt là sẽ thấy
sự trừng phạt.
Sao ấy khiến cho công việc sai phép tắc, đi ra thì mất lửa,
đi vào thì binh tàn, tan rã ở đất khách, nước nhà phải rối loạn. Sao ấy gây ra
giặc giã, bệnh tật, chết chóc, đói kém, sao ấy ở đâu thì ở đó phải chịu tai
ương. Nếu vành bọc quanh sao dao động, đổi màu và làm trở lại như thế, khi thì
ở trước ở sau, khi thì bên trái bên phải, nước ấy càng chịu tai ương nhiều hơn.
3) Sao Trấn Tinh có ý nghĩa là trung-ương, là bốn tháng 3,
6, 9, 12, là hành thổ, là đức tín. Bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí đều lấy đức tín
làm chủ. Vẻ mặt, lời nói, sự thấy, sự nghe đều lấy tư duy làm chủ. Bốn vị sao
kia (Tuế-Tinh, Oanh-Cảm-Tinh, Thái-Bạch, Thần-Tinh) đều mất đức tín nên báo
điềm nước sẽ biến động, ắt bậc vương hầu không bình yên.
Sao Trấn-Tinh mà lu mờ, ắt là việc binh bất lợi.
Sao ấy ở nước nào thì ở nước ấy được điều tốt lành.
Sao ấy nằm vào được chỗ tốt thì đàn bà con gái được phước
may, không thể đánh nước ấy được. Sao ấy không nằm được chỗ tốt thì đàn bà, con
gái có điều lo buồn.
Sao ấy ở yên không dời chỗ thì nước ấy có việc lo buồn.
4) Sao Thái Bạch có ý nghĩa là hướng tây, là mùa thu, là
hành kim, là đức nghĩa, là lời nói. Trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư),
lời nói mà bị sai lầm, thời tiết mùa thu mà bị trái ngược, khí kim mà bị tổn
thương, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Nhìn cách sao Thái-Bạch lui tới để xem về việc binh; sao ở
cao hay thấp, đi chậm hay mau, yên tịnh hay rối loạn, mọc hay lặn đều tượng
trưng cho phép dùng binh.
Nếu nói về điềm xấu, khi sao ấy mọc ở hướng tây mà đi sai
lạc thì rợ di (phía đông) và rợ địch (phía bắc) sẽ bị thất bại; nếu mọc ở hướng
đông mà đi sai lạc thì nước trung ương sẽ bị thất bại; nếu chạy dọc trên trời
(theo phương nam-bắc), đó gọi là rối loạn kỷ cương thì bậc vua chúa loài người
phải chịu lưu vong; nếu ban ngày thấy sao ấy tranh sáng với mặt trời thì nước
nhỏ mạnh, nước lớn yếu.
5) Sao Thần-Tinh có ý nghĩa là hướng bắc, là mùa đông, là
hành thủy, là đức trí, là sự nghe. Đức trí và sự nghe mà thiếu sót, thời tiết
mùa đông mà bị trái ngược, khí thủy mà bị tổn thương, ắt là sẽ thấy sự trừng
phạt.
Sao Thần-Tinh chủ về sự giết chóc, là khí sát phạt, là sao
tượng trưng cho sự chiến đấu, quân đội ắt là bị hãm ở đồng nội.
Sao Thân-Tinh tượng trưng cho sự phòng bị của tướng súy;
tướng tay không chẳng có quân lữ, đó là hình phạt dành cho tướng súy.
27.- PHÉP BÍ MẬT XEM
SAO BĂNG :
Sao băng là sứ giả của Trời, từ trên rơi xuống gọi là lưu-tinh,
từ dưới chạy lên gọi là phi-tinh, sao lớn gọi là bôn-tinh, tất cả cũng đều là
lưu tinh cả.
Sao lớn thì có sứ mạng lớn, sao nhỏ thì có sứ mạng nhỏ. Nếu
có nghe tiếng kêu, đó là tượng trưng cho sự giận dữ. Nếu chạy mau thì kỳ hạn
đến gấp rút, nếu đi chậm thì kỳ hạn còn lâu.
Nếu sao lớn mà không sáng, đó là việc của dân chúng; sao nhỏ
mà sáng đó là việc của người tôn quí. Nếu sao khi ẩn khi hiện đó là công việc
có thành có bại. Nếu sao trước lớn mà sau nhỏ thì có điều lo sợ; nếu sao trước
nhỏ sau lớn thì có việc vui mừng.
Nếu sao chạy ngung ngăng như con rắn thì có kẻ âm mưu làm
việc gian tà. Nếu sao chạy băng qua mau, băng qua mà không kịp tới (rớt), đường
băng dài thì việc lâu dài và quan trọng; đường băng ngắn thì việc mau chóng và
không quan trọng. Sao băng rơi xuống nơi nào thì dưới nơi ấy có việc binh đao.
Sao băng di chuyển mà bị ngăn trở thì có mưu sự xảy ra.
Về sao băng, hãy xét ngày giờ, xem sao ở địa phận nào để mà
luận :
- Màu xanh tượng trưng việc lo buồn, đói kém.
- Màu đỏ tượng trưng việc đao binh, khô hạn.
- Màu vàng tượng trưng việc vui mừng, việc sửa sang đất
nước.
- Màu trắng tượng trưng việc đao binh, hình phạt.
- Màu đen tượng trưng bệnh tật, bệnh dịch, chết chóc, hỏa
tai.
Khi sao băng có ánh sáng giống như tấm vải, nếu là màu xanh
thì có sứ các nước tới viếng, nếu là màu đỏ thì có việc đao binh, nếu là màu
đen thì có việc chết chóc.
Nếu sao băng rất lớn, ánh sáng chiếu xuống đất, màu xanh và
mào đỏ túa ra bốn bên thì ngũ cốc mất mùa.
Sao băng phạm vào mặt trăng hay triền mặt trăng mà ánh sáng
đỏ hướng về phía mặt trăng thì thiên hạ không yên ổn.
Khi gặp lưu tinh và bôn tinh, nếu dấy binh sẽ thắng trận.
28.- PHÉP BÍ MẬT XEM
SAO YÊU QUÁI :
1) Sao Thiên-Ngô : Cũng có tên là Giác-Tinh, vốn thuộc về sao
Tuệ-tinh (sao chổi) nhọn dài bốn thước. Nếu mọc ở hướng đông-bắc, thì chủ về
việc tranh đoạt. Nếu sao tuệ (chổi) mọc ở hướng đông thì có tên là Thiên-Cách
thì nước ấy không thể cử sự, nếu dùng binh thì phải mất thành. Sao Thiên-Ngô
dài hơn bốn thước thì chủ về việc yêu quái nổi lên khuấy phá.
2) Sao Xi-Vưu-Kỳ (giống cờ giặc Xi-Vưu đời vua Huỳnh Đế).
Giống loại sao Tuệ (chổi) nhưng có đuôi cong như hình lá cờ. Hoặc hiện ra một
mình giống như một đám mây đỏ, sắc của nó trên đỏ dưới trắng, sao ấy hiện ra ở
hướng nào thì ở hướng ấy có binh dấy loạn. Sao Xi-Vưu-Kỳ mọc ra, chủ về việc
đánh dẹp bốn phương. Lại có nói sao Xi-Vưu-Kỳ thuộc loại sao Oanh-Cảm, nhờ có
khí đỏ bồi đắp mà trở nên to lớn, sắc của nó chiếu ánh sáng xuống đất, tên của
nó là cờ Xi-Vưu, chủ về việc binh dữ dấy loạn, rợ man (nam) và rợ di (đông) xâm
phạm biên giới.
3) Sao Nguyệt-Hoàng : Hình nó lớn và có sắc đỏ, ở cách mặt
đất chừng ba trượng giống như bó đuốc, chủ về việc bên trong có giặc giã, tai
nạn, nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh, trong và ngoài đều gặp nạn đao binh.
4) Sao Chiếu-Minh : Hình lớn mà không có sừng nhọn, khi thì
lên cao khi thì xuống thấp, nước nào thấy sao ấy hiện ra thì chịu nạn đao binh.
Sao Chiếu-Minh có hình dài 3 thước, lại có thêm 3 sao ở trên, đó là loại sao
Oanh-Cảm.
5) Sao Tư-Nguy : Có hình dạng như sao Thái-Bạch, có 2 mũi
nhọn như hai cái đuôi, mọc ở hướng tây, cách xa mặt đất sáu thước và có sắc
trắng, đó gọi là sao Tư-Nguy. Sao mọc ở hướng nào thì ở nơi ấy việc hành binh
của phe chủ không được thuận lợi.
6) Sao Thiên-Sàm : Mọc ở hướng tây, giống như một cây kiếm
dài bốn, năm trượng, có tên là Thiên-Sàm. Sao ấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ấy có
dấy binh, nước nào thấy sao ấy thì có loạn lớn.
7) Sao Ngũ-Tàn : Mọc ra ở hướng đông, cách mặt đất chừng ba
đến bảy thước, giống như mũi thương chĩa ra nên gọi là tàn, như có mũi nhọn dài
ló ra. Ngũ-Tàn có nghĩa là chia ra năm phần. Nơi nào có sao ấy thì phải chịu
nạn hủy hoại, bại vong. Lại có nói sao ấy giống như lửa có màu đỏ hoặc màu
xanh. Sao Ngũ-Tàn xuất hiện ở nơi nào thì ở nơi ấy có nạn binh đao, nhà tan
nước mất.
8) Sao Trường-Canh : Giống như tấm vải dính vào da trời, nơi
nào thấy sao ấy thì có dấy binh gây loạn.
9) Sao Thiên-Tặc : Mọc ra ở hướng nam, so ấy lên cách mặt
đất sáu thước và có màu đỏ, dao động mà chiếu sáng, đó gọi là sao Thiên-Tặc. Nó
mọc ở hướng nào thì dưới hướng ấy có dấy binh gây loạn, đất ấy phải bại vong.
10) Sao Cuồng-Thỉ : Giống như sao băng có hình mũi tên, màu
xanh đen, đi như con rắn, trông như có sừng, dài chừng vài thước. Thấy nó ắt là
có binh mưu phản nhân cơn loạn mà gây loạn. Lại có nói rằng khi gặp sao
Cuồng-Thỉ thì quân sĩ sinh ra nhát sợ, binh Tần phải thua, Hạng Vũ chấp chánh.
Nơi nào thấy sao Cuồng-Thỉ xẹt xuống hướng tây thì đó làm điềm diệt vong.
11) Sao Thiên-Cẩu : Hình dạng của nó giống như chó chạy, có
sắc đen vàng và có tiếng kêu, phía trên giống như con chó. Sao ấy rơi vào xứ
nào thì xứ ấy trông như có ánh lửa rực rỡ xông lên trời, trên nhọn, dưới tròn
mà nghiêng về một bên, giống như sao Điền-Tinh mà có lông, một bên có sao chổi
ngắn, phía dưới có sao Cẩu-Tinh mọc ra có ánh sáng màu đỏ, trắng, tức đó là sao
Thiên-Cẩu. Lại có nói rằng sao băng có ánh sáng, thấy rơi xuống mà phát ra
tiếng kêu, có chưn (*) màu trắng, ở giữa màu vàng giống như hình con chó, chủ
về việc có dấy binh, giặc tới phá quân giết tướng, đổ máu ngàn dặm. Nó có một
tên thứ nhất là Lưu-Tinh, một tên thứ hai là Doanh-Đầu-Tinh, đó cũng là sao
Thiên-Cẩu. (*) Nguyên văn.
29.- PHÉP BÍ MẬT LUẬN
VỀ TÁM SAO YÊU QUÁI :
Sách Binh-Pháp nói rằng : Thần nhân ban cho sách lạ về sao
yêu quái, thế gian thường chẳng được thấy. Nếu lại sao ấy hiện ra thì không thể
không xem xét; nước nào có sao ấy hiện ra thì quan Tư Thiên Giám phải quan sát
kỹ. Theo phép này nếu sao đeo theo mây mà xuất hiện thì rất khó mà đo lường.
- Thứ nhất : Mao-Đầu-Tinh : Hình của nó dài như măng tre.
Giữa ngày so hiện giống đầu lông,
Nước chủ đang yên bỗng bận lòng
Sao hiện không đầy ba tuần nhật,
Nước sinh tai biến phải long đong!
- Thứ hai : Đới-Tinh : Sao ấy dài thẳng một đường, trên dài
ba phân, dưới dài một phân.
Treo kiếm bên trời, ấy tướng quân,
Đới ra nhất định dấy đao binh,
Ban ngày sao hiện, binh nên tiến,
Thấy ở nơi nào, ấy giặc sanh!
- Thứ ba : Thương-Ngân-Tinh : Khí của nó hợp thành một đường
đâm xuyên qua mình nó và chui qua thẳng.
Sao cặp một đường ngó giống thương,
Xuyên hẳn qua sao thật lạ thường,
Hiện ra không quá ba tuần nhật,
Binh dấy đồng thời khắp bốn phương.
- Thứ tư : Trương-Cung-Tinh : Nó dài một đường như hình cung
giương.
Hình sao trông giống chiếc cung giương
Chủ tướng tới lui phải hiểu thông
Sao hiện trước nhà binh dấy động,
Hưng binh đánh trước mới thành công!
- Thứ năm : Thần-Xoa-Tinh : Trên có ba đường, dưới có một
đường.
Thấy được Thần-Xoa thật ít khi,
Gặp thời sao hiện, chủ thiên di,
Hiện ra không quá trăm ngày chẵn,
Máu chảy tràn trề, nước loạn ly!
- Thứ sáu : Trường-Canh-Tinh : Có hình như sợi tơ thòng
xuống, có khí trắng.
Một làn khí trắng giống đường thương,
Sao hiện nơi nào, đấy nhiễu nhương,
Giữa ngày sao hiện như mây lụa,
Nước phải kinh hoàng chịu họa ương.
- Thứ bảy : Phao-Giáng-Tinh : Có đám mây giống như đầu
người.
Hình mây trông chẳng khác đầu lâu,
Sao hiện nơi nào chúa phải sầu,
Hiện ra chẳng đợi qua hai tháng,
Ma quỷ hại người, đổ máu nhiều.
- Thứ tám : Đảm-Kỳ-Tinh : Giống như mây, dài như lá cờ
trương ra.
Sao yêu xuất hiện trải cờ ra,
Biên ải man di quấy nhiễu ta,
Hiện ra chẳng quá ba tuần nhật,
Thây chết đầy đồng, ngửi thối tha.
30.- PHÉP XEM SAO YÊU
QUÁI HIỆN RA BAN NGÀY :
Sao hiện ra ban ngày, hình giống như cây cối, chủ về việc có
đao binh và đổ máu.
Nếu ban ngày có hai sao hiện ra thì thiên hạ sẽ đổi đời.
Nếu ba sao hiện ra thì rợ di (phía đông) và rợ địch (phía
bắc) xâm phạm biên giới.
Bốn sao hiện ra thì vua tôi âm mưu dấy loạn.
Năm sao hiện ra thì nước ngoài xâm đoạt nước trung ương.
Một sao hiện ra vào tháng tám ban ngày thì nên phòng ngừa kẻ
gian tà mưu sự. Nếu sao xẹt một bên thì chủ về việc có đánh lớn, đổ máu. Nếu
sao quay đuôi lại, xẹt xuống một bên thì chủ về việc mất nước.
31. – PHÉP XEM TƯỢNG
TRỜI KHI HÀNH QUÂN :
A. Một là khi gặp trời đất tối tăm, sương mù mờ mịt, gió
tung cát bụi, cờ xí không thấy rõ, chiêng trống nghe không được, thì không thể
xuất binh. Nếu có giặc thừa lúc tối tăm ấy kéo kỵ binh kiêu dũng, dời quân đến
đánh ta thì ta ắt phải dặn dò đôi ba phen, ước thúc ba quân, giữ kỹ dinh trận,
không cho loạn động, chỉ dùng các vật ngăn chận, bia, phên để đón đỡ tên và đá
bắn tới, dùng cung mạnh nỏ cứng ngồi nấp mà bắn giặc. Ta chờ đến khi giặc giải
đãi thì thừa dịp bên địch tối tăm hỗn loạn, ta xua sĩ tốt mạnh dạn lén đi ra
mặt sau quân địch để chận ngang đường rút lui cùng các chỗ hiểm yếu, bấy giờ ta
đánh thì có thể bắt được chúng.
B. Một là khi gặp trời đất mưa gió tối tăm,, sương mù mờ mịt
tất cả bốn phía, thì không thể tiến binh, cũng không thể dời trại, vậy nên giữ
kỹ dinh trại, để phòng ngừa sĩ tốt biến loạn hoặc giặc ở ngoài tới đánh.
C. Một là khi gặp gió to, mua lớn, lạnh nhiều, nắng gắt,
không thể ra binh đánh dẹp, vậy nên vỗ về giúp đỡ quân sĩ, giữ vững dinh trại,
tất nhiên giặc cũng không thể ra binh. Nếu binh ta đi đường mà thình lình gặp
giặc thì nên lập gấp dinh trận để chờ khi trời tối và chờ lúc thế giặc suy
giảm. Bấy giờ ta gắng thìm phương sách hay, xét thời trời, thăm dò chỗ sơ hở
của địch.
D. Một là gặp khi tuyết đổ mờ mịt, trong vòng trăm bước
không thấy người ngựa, trong trường hợp ấy thường thường giặc đặt kỳ binh nấp ở
nơi hiểm ải để chờ đánh ta vào lúc vô ý. Nếu ta ra quân đối ứng với giặc thì
chúng sẽ giả vờ thua chạy mong rằng ta đuổi theo để dẫn dụ ta vào chỗ chúng
đang phục binh. Theo cách tự nhiên, ta trước hết nên chọn năm bẩy tỳ tướng, vài
mươi đội tỉnh kỵ, chờ khi giặc tới bốn phía tả hữu trước sau, cho quân đến dẫn
dụ ta, hoặc dùng quân tỉnh kỵ bày trận thế xông vào đánh ta, tức thời từ đằng
sau quân ta, ta khiến hai viên tướng đi ra, góp kế di chuyển và ứng biến với
nhau, đem người ngựa đi vòng quanh, tìm đường về của ngựa giặc, rồi dò xem có
phục binh hay không tại các nơi hiểm ải trên đường về ấy. Nếu ta có tức thời
chia binh ra hai ba nhóm, thay phiên nhau mà đánh thì giặc phải thua chạy.
Nếu giặc đến đánh ta trước, bên ta đầu đuôi chẳng thấy nhau,
như thế quân ta phải rời khỏi chỗ mà giặc đặt phục binh, rồi đem nhuệ binh quay
ngược lại đánh ngang vào hông giặc. Bấy giờ đám giặc đến đánh ta không biết
rằng bên kia phục binh đã thua chạy, ta bèn sai một toán tỉnh kỵ, vừa đánh vừa
lui, thay phiên nhau bọc đánh đích, chờ giặc đi vào chỗ ta phục binh, ta liền
đem đầu đuôi giáp lại thì có thể cầm bắt toàn thể quân địch. Đó là chỉ giảng sơ
lược về trường hợp toàn quân đang giao thông, phải biết tùy lúc gấp hay hoãn mà
ứng đối.
Đ. Gặp cơn tuyết lớn bay mịt mù như vậy, nếu ta có cung
cứng, ngựa hay, người mạnh thì việc xảy ra tầm thường không quan-trọng.
Khi đi săn bắn chơi, còn phải xem trời mây huống hồ là hai
toán quân tranh nhau thắng bại, muốn thâu lợi lớn về phía mình.
E. Sau cơn tuyết lớn, khi biết là bộ binh của ta khó tiến,
quân giặc bèn lập mưu lạ đem nhiều tinh kỵ tới bốn phía chung quanh dinh lũy
của ta, khiêu chiẽn để dẫn dụ quân ta, hoặc dùng tinh kỵ chạy qua chạy lại xung
phong vào quân ta. Nếu ta đem binh ra, tức thi giặc phân binh tứ tán, đầu đuôi
hiệp lại để tới đánh ta, một là đánh dinh trại của ta, một là chận đường lương
thảo của ta, ngăn cho hai đầu đuôi của ta không cứu ứng nhau được. Nếu đúng như
thế, quân ta ngăn rào cho kỹ mà đừng đi ra, chờ giặc đem binh mạnh tới đánh, ta
bèn dùng cung nỏ cứng, loại nỏ sàng tử, cái thì bắn ở trên, cái thì bắn ở dưới.
Khi thế giặc đã yếu, không còn chí chiến đấu nữa, ta có thể đem toàn quân ra
bắt giặc.
G. Một là ngày mới ra quân, nếu có mưa nhỏ gọi là mưa nhuận
binh, ắt sẽ có thắng lớn. Nếu có mưa lớn gọi là mưa mộc thi (thây gỗ) thì phải
chọn ngày khác để tiến binh. Việc tuy gấp rút cũng không thế tiến binh được bởi
vì thời trời chưa thuận, chỉ tổn hại nhân mạng và khí cụ mà sĩ tốt lại không
đẹp lòng.
H. Một là gặp cơn gió lớn thổi tung cát bụi thì không thể
tiến binh đánh dẹp. Nếu binh đang đi đường thi nên tìm ngay tại đó có chỗ nào
tiện lợi để lập dinh trại, chỉnh đốn binh mã. Nếu phía truớc bỗng gặp phục binh
đánh cắt đứt quân ta, hoặc có đánh lớn, đó là điềm cho biết ý trời không thuận
cho sự ra binh. Nếu đóng dinh trại ở đồng ruộng thì nên dặn dò quân sĩ hai ba
lần hãy giữ vững dinh trại để phòng ngừa giặc theo chiều gió đến la ó mà đánh
đinh trại của ta. Nếu ta lập trận đã xong mà có gió ấy thì cũng không đánh mà
nên giữ vững.
I. Một là gặp mặt trời và mặt trăng hơi bị ăn, thì không nên
tiến binh đánh dẹp, mà chỉ ra lệnh cho ba quân giữ gìn chắc chắn để phòng ngừa
giặc đến đánh.
K. Một là quân đang đi đường, gặp nhiều ngọn gió lớn xáp
nhau, đập vào nhau, khi thì thổi khi thi nghỉ, bấy giờ phải sợ giữa đường có
phục binh đánh, vậy nên đề phòng.
L. Một là gió đập vào mặt người thì không nên tấn binh. Nếu
khi phát binh đi trên đường thì gập gió thuận thổi, khi đi được nửa đường hoặc
trở về thì gặp gió nghịch thổi, bấy giờ nên lập đinh trại ngay tại đó. Nếu cứ tiến
binh, ắt sẽ gặp phục binh. Nếu gặp giặc phải đánh, mà có gió nghịch không phân
lớn nhỏ thì không nên giao chiến mà nên giữ vững.Vì đạo trời chưa thuận nên
phải thế.
M. Một là khi mới phát binh, gió mưa chẳng có, đi được nửa
đường, bỗng có đánh lớn, và có mưa to gió lớn, thì nên chọn gấp chỗ lập dinh
trại để giữ vững mà chớ nên tiến binh. Nếu cứ đi tới ắt có huyết chiến.
N. Một là quân đang đi trên đường hay đang đóng dinh trại ở
đồng nội, mà gặp mưa to gió lớn, tuyết rơi sương mù, tối tăm mờ mịt thì không
nên tiến binh dẹp giặc. Nên vỗ về sĩ tốt để giữ vững là hơn hết.
O. Một là quân đang đóng dinh trại tại đồng nội, chỉ có điềm
trời là sắc mây, móng trời, sao băng sa xuống, đất cát thay đổi, chim bay, thú
chạy, có giống vật lạ chạy vào dinh trận cắn quân lính, thì nên bói đề tìm
hiểu.
32.- PHÉP XEM SƯƠNG
RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI :
Hễ về tháng ba mùa hạ, dương-khí tới mà bỗng nhiên sương rơi
xuống lộp độp làm cho đầu cành cây ẩm ướt, ắt sẽ có binh dấy lên từ phương bắc,
đến lấy nước, phá thành. Chủ nên phòng bị vực binh. Ngày xưa, hiền thần Trâu
Diễn nước Yên bị giam trong ngục, trời bèn giáng sương vào tháng ba thì không
tới một tuần, có binh dấy ở phương bắc.
33.- PHÉP XEM MƯA
TUYẾT:
Tuyệt là tinh túy của mưa móc không phải do trời mà khởi,
không phải do đất mà sanh, mà chính do việc binh của nước mà ứng.
Mùa đông sinh tuyết thì thuận, mùa hè sinh tuyết thì nghịch.
Vào tiết hạ chí mà tuyết bay ngàn dặm thì có dấy binh ở biên giới phía bắc. Chủ
nên phòng bị.
34.- PHÉP XEM MÓC RƠI
ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI:
Móc là do âm khí kết lại mà thành, nó đông lại như mỡ, trông
đẹp đẽ như kẹo. Nếu được như vậy, thì thuận lòng trời, binh sẽ gặp điều tốt
lành.
Nếu lạnh nhức xương, tê da, ắt sẽ nghịch lòng trời, hành
quân sẽ đại bại.
Móc cũng có tên là “rượu của trời”. Ngày xưa, người ta tin
rằng Vua Hán Võ Đế được thần tiên dùng tay hứng cho mà uống, chắc phải có lợi
gì.
35.- PHÉP XEM MƯA GIÓ
NGÀY MỒNG MỘT:
Ngày mồng một tháng giêng mưa to, gió lớ, thổi cát bụi bay
lên, làm tróc nóc nhà, chủ về việc tơ lụa hiếm hoi, nghề tằm thất bại, lúa mất
mùa.
Ngày mồng một tháng hai có mưa thì tơ xấu, mất mùa lúa. Ngày
ba mươi mà mưa thì dân gặp nhiều tật bệnh, chết chóc nhiều và gặp việc dữ.
Ngày mồng một tháng ba có mưa gió thì có nhiều bệnh, có sâu
lúa sinh ra, hai thứ lúa mì lớn nhỏ đều không chín, nhân dân chịu sầu khổ.
Ngày mồng một tháng tư có mưa gió thi lúa mì xấu, gạo trở
nên đắt đỏ. Ngày ba mươi có mưa lớn thì có bồ cào (sâu keo) gieo nạn dữ.
Ngày mồng một tháng năm có mưa gió thì trâu bò trở nên đắt
đỏ. Trong năm ấy nhân dân sẽ đói kém, trở nên sầu oán và sẽ có dấy binh.
Ngày mồng một tháng sáu có mưa gió thì lúa gạo trở nên hiếm
hơi đắt đỏ.
Ngày mồng một tháng bảy có mưa gió thi lúa gạo trở nên đắt
đỏ, nhân dân không yên ổn, thiên hạ loạn lớn.
Ngày mồng một tháng tám có mưa gió thi đất âm có nhiều vải
và lúa mì, khan hiếm gạo và dầu mè.
Ngày mồng một tháng chín có gió mưa thì hột mè khan hiếm cho
đến xuân hạ năm sau.
Ngày mồng một tháng mười có gió mưa là chủ về việc có khô
hạm, hột mè khan hiếm.
Ngày mồng một tháng mười một có gió mưa thì việc binh gặp
nhiều tai nạn. .
Ngày mồng một tháng chạp có gió mưa thì mùa xuân bị khô hạn,
mùa hè bi lụt lội, gạo lúa trở nên đắt đỏ.
MỘ BINH
36.- TUYỂN MỘ:
Đặt ra ba bậc đề tuyển mộ tráng sĩ. Từ quan lại trở xuống,
đều phải cử người mà mình biết rõ.
Những kẻ giặc cướp thi để vào bậc trên, những kẻ đả thương
hoặc trộm cắp cho vào bậc thứ hai, những kẻ không lo việc nhà thì cho vào bậc
dưới.
Khiến nhóm họp các tướng và để 300 cỗ xe ngựa cho họ dùng,
rồi tuyển mộ quân cảm tử để hầu hạ họ: nếu không phá được địch, cũng không đến
nỗi mất nhuệ khí.
37.- BINH MẠNH:
Trong phép chiến thắng có 5 việc cốt yếu:
1) Sắp sẵn bào giáp, binh khí.
2) Lo kiếm người, ngựa. xe cho đủ.
3) Chứa trữ nhiều.
4) Huấn luyện sĩ tốt.
5) Chọn tướng giỏi.
Năm việc trên đã chuẩn bị xong rồi mới có quân đội mạnh mẽ
được.
38.- CHỌN BINH ĐỂ TẬP
LUYỆN:
Binh cần tinh nhuệ chớ không cần nhiều.
Nên chọn những kẻ khoẻ mạnh mà dùng chớ chọn những kẻ ốm yếu
để khoe số đông.
Những hạng có thể thâu nạp để huấn luyện là những kẻ:
1) Có nhiều anh em.
2) Không cha mẹ.
3) Tuy đơn độc nhưng có con nối dõi,
4) Nhà tuy nghèo nhưng có tài sức mạnh khoẻ.
CHỌN TƯỚNG
39.- XÉT TƯỚNG:
Muốn biết nguời nên xét tám chứng cớ sau này:
1) Thứ nhất là hỏi họ, buộc họ phải trả lời để dò xem kiến
thức tường tận của họ.
2) Thứ hai là lấy lời gạn hỏi họ để xem tài ứng biến của họ.
3) Thứ ba là dùng gián điệp dò xét họ để xem lòng thành thực
cửa họ.
4) Thứ tư là buộc họ giảng giải rõ ràng để xem đức độ của
họ.
5) Thứ năm là dùng tiền của mà sai khiến họ để xem tánh liêm
khiết của họ.
6) Thứ sáu là dùng sắc đẹp mà thử họ để xem lòng trinh chính
của họ.
7) Thứ bẩy là đem việc khó mà bảo họ để xem lòng dũng cảm
của họ.
8) Thứ tám là cho bọ uống rượu say để xem thái độ của họ.
40.- DÙNG TƯỚNG:
Hỏi : Nếu có một viên tướng mạnh dạn, một viên tướng cơ trí
phải dùng họ như thế nào mới được?
Đáp : Tướng mạnh dạn thì có tài đánh phá chỗ kiên cố của
địch, vây hãm trận địch, có tướng mạnh thì có thể gây nên thế mạnh. Về việc lo
liệu đối phó với quân địch, sắp đặt kế hay, tùy cơ ứng biến, nếu không có tướng
cơ trí thì không thể làm được.
Nếu tướng chỉ cậy dõng cảm mà thôi thì phải thua mưu trí
vậy. Cho nên ngày xưa, xây đàn, lên đài, đẩy trục xe (*), ắt phải tìm mời tướng
súy có cơ trí để làm chỗ trông cậy cho người tướng mạnh dạn. Do đó người làm
chủ tướng không cần phải biết phép thuật, đánh gươm cưỡi ngựa, bắn cung, mà cần
phải hiểu biết thông suốt các việc xưa nay.
Vậy phải giao trách nhiệm chỉ huy cho ai? Muốn biết một viên
tướng là tài giỏi hay ngu tối, ta phải thử thách họ để coi họ động lòng hay
không.
(*) Đó là phép đăng đàn bái tướng của vua chúa đời xưa: Võ
Vương phong tướng cho Khương Tử Nha, Hán Cao Tổ phong tướng cho Hàn Tín…vân
vân...
41.- CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI
TƯỚNG NGU TỐI CỦA ĐỊCH QUÂN :
Thử thách mà động lòng đó là hạng tướng ngu tối. Tướng ngu
tối thấy lợi thì động lòng, khinh thường quân địch nên động lòng. Về phương
pháp đối phó, ta nên dùng hai cách phỉnh gạt sau này để bắt tướng ấy :
- Đối với tướng tham lợi, ta dùng mồi nhử để bắt họ.
- Đối với tướng coi thường đối phương, ta giả vờ khiếp nhược
để câu nhử thì có thể bắt được họ.
42.- CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI
TƯỚNG GIỎI CỦA ĐỊCH QUÂN :
Thử thách mà không động lòng, đó là hạng tướng tài giỏi.
Tướng tài giỏi, có mưu trí đầy đủ nên không động lòng, có pháp thuật đầy đủ nên
không động lòng. Về phương pháp đối phó, ta nên dùng hai cách giúp thêm sau này
để chống chọi.
- Khi hai bên dùng trí đấu nhau, mưu-trí của ta không hơn
được mưu trí của địch, thì ta dùng pháp thuật giúp thêm vào, để che ngăn chỗ sơ
hở khi địch nhân lúc ta thua trí mà đánh vào.
- Khi hai bên dụng phép thuật để đánh nhau, mà phép thuật
của ta không hơn được phép thuật của địch, thì ta dùng mưu trí giúp thêm vào,
để ngăn ngừa sự biến loạn, khi địch thừa dịp ta sơ hở về phép thuật mà đánh
vào.
43.- CHIẾN LƯỢC:
Đây là mưu đánh. Khi giao binh, nếu muốn biết tình trạng hư
thực của địch, ta hãy làm cho người lộ hình tích mà giữ cho ta vô hình. Ta làm
cho người bộc lộ tình trạng hư thực, đánh vào chỗ sơ hở của họ mà thành ra đánh
được chỗ vững bền của họ.
Nếu ta đánh vào chỗ vững mạnh của địch, ắt là ta sai lầm,
nếu ta đánh mạnh vào chỗ sở hở của địch thì ta được vững mạnh, sai lầm ở trên
là bởi lẽ đó. Sâu kín đến nỗi trở nên vô hình, giấu kỳ ở trong chính, giấu
chính ở trong kỳ, lấy kỳ làm chính, lấy chính làm kỳ.
Phép đánh là dùng chính để hợp, dùng kỳ đề thắng, phép chiến
thắng không ra ngoài kỳ chính, cách biến hóa của kỳ chính không bao giờ hết
được. Kỳ và chính sinh ra nhau như vòng tròn không có đầu múi. Xét hư thực,
hiểu rõ đâu là vững chắc đâu là sơ hở, khéo dùng phép kỳ chính, đó là ba vật
báu của binh pháp.
Biết mình biết người, trăm đánh trăm thắng. Nuôi khí lực của
dân, định tâm chí của quân, đó gọi là biết mình. Xét tình hình quân địch, đó
gọi là biết người.Việc ấy có ba điều trọng yếu, phát xuất từ ba căn bản, tại
sao thế?
Theo phép cầm binh thì “dụng” bên ngoài khoan nghiêm không
chừng, nhưng “thể” bên trong phải nghiêm, cho nên binh gia và pháp gia phụ giúp
cho nhau; hình trạng bên ngoài thì động tĩnh vô thường nhưng phải lấy tĩnh làm
chủ, cho nên binh gia và âm phù gia (pháp sư) phải nhờ cậy nhau. Việc hình pháp
không cần phải kiêm thêm việc binh, nhưng trái lại việc binh chưa bao giờ khỏi
kiêm thêm việc hình pháp; pháp thuật không cần dùng binh mã, nhưng binh gia
chưa bao giờ khỏi dùng pháp thuật. Cho nên mới nói rằng: ba điều trọng yếu do
ba căn bản. Dùng sở trường của các nhà rồi suy tính lợi hại, như thế mưu lược
sẽ được hoàn bị.
44.- CÁCH DÙNG TƯỚNG:
Hỏi : Phép dùng tướng như thế nào ?
Đáp : Tại một việc cơ quyền mà thôi. Tướng nói có thể dùng
dân thì phải dùng, tướng nói không thể dùng dân thì không dùng. Tướng nói có
thể dùng binh thì phải dùng, tướng nói không thể dùng binh thì chớ dùng. Tướng
nói có thể đuổi đánh quân địch thì phải đuổi đánh, tướng nói không thể đuổi
đánh thì chớ đuổi đánh. Như thế quân pháp không rối loạn, cơ quyền không bị cản
trở.
Nhưng muốn biết dùng tướng, trước hết phải biết chọn tướng.
Muốn biết chọn tướng, trước hết phải biết xét tướng. Ba việc hiểu biết ấy đem
lại quyền năng thần diệu cho tướng súy, cho nên không thể không xem xét cẩn
thận. Phép khiển tướng, dùng binh như thế đầy đủ rồi sao?
Tuy nhiên theo Tôn Ngô thì phải lo đánh thành, còn theo lời
Mạnh Tử, Tuân Tử thì chưa được. Vì sao nói thế? Đáp rằng : Kế hoạch căn bổn đã
mất nên mới dùng Tôn Ngô, đó chỉ là búa rìu dùng để đẽo gọt nước nhà. Bên ngoài
dữ ác, bên trong đẽo gọt hì cơ mất nước chỉ còn kiễng chân mà mong chờ.
45.- CHIẾN LƯỢC :
Việc cốt yếu trong khi đánh giặc là trước hết xem xét tài
năng của tướng địch, tùy theo hình thế mà dùng cơ quyền, ắt là không mệt nhọc
mà được thành công.
Tướng địch ngu ngốc mà lại tin người thì ta có thể hứa hẹn
để dẫn dụ.
Tướng địch tham lam mà không cầu danh thì ta có thể dùng
tiền mà hối lộ.
Nếu tướng địch nhẹ dạ vô mưu, thì ta có thể làm cho phải vất
vả, khốn đốn.
Bên địch trên giàu mà kiêu căng, dưới nghèo mà oán hận thì
ta dùng mẹo ly gián.
Bên địch tới lui ngờ vực, dân chúng không biết trông cậy vào
đâu, thì ta làm cho chúng rúng động rồi đuổi đánh chúng.
Bên địch sĩ tốt khinh tướng súy mà có bụng muốn trở về, thì
ta ngăn chận lối đi dễ, mở thông lối đi khó rồi đón đánh thì cầm bắt được.
Bên địch đường tới dễ đường lui khó thì ta vời chúng đến mà
đánh, bên địch đường tới khó đường lui dễ, thì ta đến gần chúng mà đánh.
Địch đóng quân ở chỗ ẩm thấp, nước không có chỗ chảy thông,
trời mưa dầm lâu ngày thì ta có thể khơi nước chảy vào để chúng bị chết đuối.
Địch đóng quân ở chốn đồng hoang, lau cỏ um tùm, khi có gió
mạnh ta dùng lửa để đốt chúng chết cháy.
Địch đóng quân lâu ngày ở một chỗ, tướng sĩ biếng nhác, quân
ấy không phòng bị, ta có thể ẩn nấp mà đánh úp.
46.- CÁC HẠNG TƯỚNG
SÚY :
Tướng súy có nhiều hạng :
- Có tướng nho nhã
- Có tướng mạnh dạn
- Có tướng khôn lanh
- Có tướng tài giỏi.
Tướng nho nhã thì có mưu trí
Tướng mạnh dạn thì đánh mạnh
Tướng khôn lanh thì biết ứng biến
Tướng tài giỏi thì có nhiều khả năng.
Nếu tướng gồm kiêm được hết thì không việc gì mà không thần
diệu, nếu tướng biết phòng bị thì không có việc nào bất lợi.
47.- HÒA MỤC :
Hòa mục là giềng mối chính của sự trị an. Trong nước hòa mục
thì việc binh tốt đẹp. Lính đồn thú ngoài biên cảnh hòa mục thì không có việc
kinh sợ. Nếu bất đắc dĩ mới đặt giới cấm thì sự hòa mục càng được quí trọng.
Vua tôi hòa mục sau mới chuyên dùng. Tướng văn tướng võ hòa mục sau mới thành
công. Tướng sĩ hoà mục sau mới nhắc nhở công lao của nhau mà tưởng thưởng, khi
gặp nguy nan mới cứu viện nhau. Vậy sự hòa mục là đường lối tốt đẹp bất đi bất
dịch cửa phép trị quốc hành binh.
48.- TRỌNG THƯỞNG
TƯỚNG SÚY :
Tướng súy đánh trống, phất cờ, khi gặp nạn thì quyết tử
chiến, xông pha gươm dáo, chống chọi nổi với địch thì được thưởng công, nêu
danh, thua địch thì binh chết nước mất. Như thế vấn đề còn, mất, yên, nguy chỉ
tùy thuộc vào một mảy tơ hào, do đó không thể không trọng thưởng tướng súy.
49.- TÀI DỨC CỦA
TƯỚNG SÚY :
Tài đức của tướng súy kẻ ít người nhiều chẳng giống nhau.
- Che giấu điều gian tà, chứa trữ tai họa, chẳng biết dân
chúng hờn oán, đó là tướng coi 10 người.
- Siêng năng cần mẫn, nói năng kín đáo rõ ràng, đó là tướng
coi 100 người.
- Ngay thẳng mà biết lo âu, mạnh dạn mà biết chiến đấu, đó
là tướng coi 1000 người.
- Ngoài mặt mạnh mẽ, trong lòng hăng hái, hiểu rõ điều lao
khổ của người, thương xót cảnh đói rét của người, đó là tướng coi muôn người.
- Gần hiền, cử tài, được một ngày thì cẩn thận một ngày,
thành tín, rộng lượng, sửa trị việc rối loạn mà vẫn thanh nhàn, đó là tướng coi
100 ngàn người.
- Nhân ái đối với người dưới, dùng tín nghĩa để hàng phục
nước láng giềng, trên hiểu thiên văn, dưới thông địa lý, giữa rõ nhân sự, coi
người trong bốn biển như trong một nhà, đó là tướng-súy của tất cả thiên-hạ,
không ai có thể đối địch lại được.
49.- THỜI TIẾT :
Việc điều binh khiển tướng là việc lo sợ của binh gia vậy
nên cần chờ mặt trời, mặt trăng (ngày, tháng thuận lợi) để được thành công.
50.- PHÉP LẬP ĐÀN :
Lập đàn 3 từng cao 3 trượng để tượng trưng tam tài, rộng 24
trượng để tượng trưng 24 khí.
Giữa đàn có 25 người đứng, mặc áo vàng, tay cầm cờ vàng,
đuôi báo, trấn giữ ở giữa cung mậu, kỷ, thổ đề tượng trưng việc chỉ huy trận
hình.
Phía đông đàn có 25 người, mặc áo xanh. tay cầm cờ xanh,
trấn giữ hướng đông, giáp, ất, mộc để tượng trưng thanh long (rồng xanh).
Phía tây đàn có 25 người, mặc áo trắng, tay cầm cờ trắng,
trấn giữ hướng tây, canh, tân, kim để tượng trưng bạch hổ (cọp trắng).
Phía nam đàn có 25 người, mặc áo đỏ, tay cầm cờ đỏ, trấn giữ
hướng nam, bính, đinh, hỏa để tượng trưng chu tước (phượng đỏ).
Phía bắc đàn có 25 người, mặc áo đen, tay cầm cờ đen, trấn
giữ hướng bắc, nhâm, quý, thủy để tượng trưng huyền võ (rùa đen).
Chung quanh đàn có 365 người cầm cờ đủ mầu để tượng trưng
vòng trời 365 độ Như thế là đầy đủ.
Đại tướng theo phương sinh khí, lên đàn bái tướng tế trời
đất, đóng giữ sáu nhung(?), sắp đặt mà dùng.
Bên trái và bên phải có các quan văn võ đứng hầu, nếu có ai
làm huyên náo hoặc đứng sai hàng lối thì sẽ có quân pháp trừng phạt.
51- TRAO MỆNH CHO
TƯỚNG SÚY:
Việc yên nguy của xã tắc đều tùy thuộc vào một người chủ
tướng nên mới khiến quan Thái Sử giữ trai giới ba ngày, đến Thái Miếu bói ở mu
rùa để chọn ngày tốt trao rìu búa.
Vua đi vào cửa miếu, quay mặt về hướng tây mà đứng, tướng
quay mặt về hướng bắc mà đứng.
Vua tự cầm đầu rìu đưa cán cho tướng mà nói rằng: Từ đây cho
tới trời, tướng quân hãy lo chế ngự.
Rồi cầm cán búa đưa lưỡi búa cho tướng mà nói rằng: Từ đây
cho tới vực thẳm, tướng quân hãy lo chế ngự.
Tướng nhận búa rìu lạy tạ mà trả lời Vua : Hạ thần nghe rằng
việc nước không thể theo ngoài, trị quân không thể theo trong. Hai lòng không
thể thờ vua, chí khí chia lìa không thể ứng phó với địch quân. Thần đã chịu
mệnh, cầm rìu búa, không dám sống mà trở về. Mong Vua ban cho thần một lời nói
trao mệnh, nếu Vua không chịu thần không dám làm tướng.
Làm như thế thì trên không có trời. dưới không có đất, ở
trước mặt không có địch, ở sau lưng không có Vua.
52.- DÙNG TƯỚNG :
Đời sau dùng người không được như thế. Nghị bàn một người mà
phần thi hành về một người khác. Như thế người nghị bàn không biết sự khó khăn
của người thi hành mà chỉ nói lý thuyết cao siêu. Người thi hành muốn tuân thụ
ý của người nghị bàn nhưng không hợp với thời cơ. Thậm chí có khi một người thi
hành mà có tới mấy chục người nghị bàn. Ở giữa kẻ hiền và người gian lẫn lộn,
kẻ thương và người ghét đều theo ý riêng của mình mà nói. Kẻ thương tuy ít mưu
nhưng cũng phụ hội mong cho thành. Kẻ ghét tuy mưu hay những tìm nhiều cảnh để
khuấy rối. Không biết liệu lường địch yếu hay mạnh như thế nào mà cứ cho rằng
đánh ít thì thắng ít, đánh nhiếu thì thắng lớn. Không hỏi thời thế khó dễ như
thế nào mà thấy quân nghỉ ngơi thì buộc tội trì hoãn, thấy quân giữ vững thì
buộc tội biếng nhác. Kẻ thi hành liếc trái, nhìn phải, muốn đánh hay giữ, tới
hay lui, đều không tự chủ được.
Đến khi có mười cỗ xe nguyên nhung chưa kịp đi mà quan trên
đã ban lệnh rối rít, mệnh lệnh trong quân đã định mà bọn áo gấm ngồi cao đã tới
làm rộn, việc đem sĩ tốt ra mà đánh hay đem tướng ra mà đánh đều do bọn nghị
bàn đề xướng tất cả. Các đời Đường, Tống, Minh đều thất bại vì nạn nói trên,
đời Tống vấp nặng mà đời Minh lại càng nặng hơn nữa.
Kẻ luận việc đời Tống nói rằng : Nếu chỉ bàn suông mà thành
công, thì ai bàn ít mà rõ việc, đó là kẻ sáng suốt trong thiên hạ. Không chết
vì tay giặc cướp mà chết vì tay người nhà, không chết ở nơi biên cương mà chết
vì kẻ can gián ngồi cao, điều tệ hại ấy sinh ra do những người chỉ lo làm mà
không chịu luận bàn. Trái lại đối với những kẻ chỉ bàn suông mà không làm thì
họ cứ bàn luận phân vân như tơ vò không thể gỡ rối. Xét lại việc xưa nay, Hán
Tuyên Đế sử dụng Triệu Sung Quốc, là biết phép dùng tướng vậy.
ĐẠO LÀM TƯỚNG
53.- CẨN MẬT :
Biến động là nguồn gốc của kỳ chính, gặp việc chẳng hé môi,
dùng binh chẳng nói năng. Cho nên khi có việc, không gì hơn được trước, khi
động không gì hơn kín lặng, khi dùng không gì hơn bất ngờ, khi lập mưu không gì
bằng đừng cho ai biết.
54.- HƯ THỰC :
Kẻ thắng trước thì trước hết tỏ ra mình yếu hơn địch cho nên
sĩ số chỉ bằng nửa mà sức đánh gấp bội địch.
Cho nên chưa thấy thắng mà đã đánh, dầu đông quân cũng sẽ
thất bại. Kẻ đánh giỏi ở yên thì không lộn xộn, thấy thắng được thì dấy binh
đánh, thấy không thắng được thì dừng lại.
Ngày xưa kẻ giỏi dùng binh trong lòng muốn như thế nhưng tỏ
ra ngoài rằng mình không muốn như thế, khiến cho địch ngờ rằng mình không muốn
như thế, để thi hành ý muốn của mình đúng như thế, đó là phép vi diệu, để phá
quân, bắt tướng, hàng thành, phục ấp. Bây giờ nếu ý muốn chẳng phải thế, thì
làm ra vẻ muốn như thế, khiến cho địch ngờ rằng mình muốn như thế, để mà thi
hành ý muốn riêng của mình, đó là phép vi diệu để phá quân, bắt tướng, hàng
thành, phục ấp. Cho nên việc bày ra ngoài là ảnh. Cho nên làm ra cho người
thấy, nhưng không có ý ấy, thì trong ảnh lại có ảnh hiện ra. Hai gương cùng
treo soi nhau, đã sâu kín lại càng sâu kín.
Địch sắp đặt mưu kế mà ta phá hoại được, địch toan đoạt lợi
ta mà ta ngăn chặn được, ắt là cơ trí của địch phải thất bại. Chúng giả vờ khêu
chọc ta để đánh úp ta, ta phá được. Chúng giả phô trương, ta phá được. Chúng
giả đánh, ta phá lực lượng của chúng. Chúng dẫn dụ lừa dối ta, ta phá hỏng mưu
mô của chúng. Hoặc ta dùng cách giả trá để phá chúng, hoặc ta dùng cách tín thực
để phá chúng. Hư thì không thực, giả trá thì không tạo công. Thực thì không hư,
thành việc thì được kết quả. Vận hành ở đất không có, lay chuyển ở mối đầu đứng
yên. Sâu kín tối tăm. Địch muốn làm nhưng chẳng lo toan được. Địch muốn mưu đồ
nhưng chẳng có tâm trí để làm việc ấy, đó là sự thần diệu của cách biến hóa hư
không vậy.
55.- XỬ THẾ :
Bỏ mình để báo ơn Chúa mà không khiến được sĩ tốt đồng lòng
cùng chết, như thế chẳng phải là tướng giỏi thành công. Cùng sĩ tốt ăn uống mà
về sau quên lúc đói khát trên ngựa. Cùng sĩ tốt hưởng bổng lộc mà về sau quên
việc xông pha nguy hiểm. Cùng sĩ tốt thức ngủ nhưng về sau quên việc đánh dẹp
gian lao. Lo điều lo của sĩ tốt, cùng chịu điều khổ của sĩ tốt, những về sau
quên vết thương tên bắn. Việc đã xong thì tình phải tròn. Cho nên chiến đấu là
điều trọng yếu, chịu thương tích chết chóc là phận sự, xông pha gươm dáo, tranh
đi trước người là nhiệm vụ, nhưng nếu không biết đường lối thì đó là việc nguy
hiểm. Kẻ quên mình ở hoàn cảnh nguy hiểm mà lại vui vẻ được, kẻ ấy sẽ ăn vật
độc như ăn kẹo.
56.- CHIẾN LƯỢC :
Đem binh uy hiếp chỗ mà thiên hạ không biết, chế ngự chỗ mà
thiên hạ không dám cựa, đánh vào chỗ mà thiên hạ không thể giữ, trấn giữ chỗ mà
thiên hạ không dám đánh, chạy vào chỗ mà thiên hạ không thể chống cự, rời bỏ
chỗ mà thiên hạ sẽ không đến. Ta trấn nhiếp chỗ nào thì thị uy ở chỗ ấy khiến
cho địch chưa dùng binh mà đã sợ ta. Đến khi dùng binh mà địch không chống nổi
ta thì bởi chúng đã một lần sợ ta rồi nên ngàn năm chúng cũng sẽ sợ tài của ta.
57.- THẾ CHỦ ĐỘNG :
Tới lui đánh giữ đều do nơi ta, đó là có cơ đánh thắng. Do
ta thì ta chế ngự được địch, do địch thì bị địch chế ngự. Ta muốn chế ngự địch
mà dầu địch không muốn cũng không cưỡng lại được, đó là do ta sắp đặt khiến cho
phải được như thế.
58.- TÁNH TỰ NHIÊN :
Tự tánh thì chẳng có gì mà chẳng chứa đựng. Quen làm một
việc lâu ngày ắt là đem dùng được tự nhiên. Cho nên kẻ giỏi dùng binh thì chẳng
thấy gì ngoài việc binh, chẳng luận đàm gì ngoài mưu lược, chẳng trị chỗ nào mà
không biến hóa xen trộn. Đó là khi thấy việc biến xẩy tới thì chẳng cần chờ an
bài bèn tính toán so đo để trong mọi việc kinh dinh chẳng có điều gì mà không
hoà hợp, ổn thỏa. Trời tự nhiên mà vận hành, đất tự nhiên mà ngưng tụ. Việc
binh thi hành tự nhiên cho nên chẳng bao giờ mà không thắng.
59.- THÁNH ĐẠO :
Dùng mưu trí để hàng phục thiên hạ mà thiên hạ chịu khuất
phục mưu trí của mình thì mưu trí ấy cũng chưa phải là tối thắng. Dáng hình
pháp để chế ngự thiên hạ, mà thiên-hạ chịu theo hình pháp thì hình pháp ấy cùng
chẳng có gì hay. Dưới mưu trí hay hình pháp đều chẳng phải là điều hay nhứt
trong những điều hay. Ngày xưa Thánh Võ giữ thế mà chẳng vây thành, chẳng đánh
lũy chẳng bày trận, đó là nhờ nương náu ở chỗ hư không và dựa vào chỗ ít oi.
Un đúc trong thế không tranh mà được vậy. Sâu xa trong sạch
60.- TIẾT CHẾ :
Ngày xưa, Vua Đường Thái Tôn hỏi Lý Tịnh rằng:
- Hiện nay, về tướng súy chi có Lý Tích, Đạo Tông và Tiết
Vạn Triệt. Nhưng trừ Đạo Tông là chỗ thân thuộc để riêng ra ngoài, thì ai có
thể kham được việc lớn?
Lý Tịnh đáp:
- Bệ hạ thường nói Lý Tích và Đạo Tông dùng binh không thắng
lớn mà cũng không thua to. Còn Vạn Triệt nếu không thắng lớn thì phải thua to.
Nhân nghe thánh ngôn của Bệ Hạ, thần cạn nghĩ rằng: Không cần thắng lớn mà cũng
không thua to đó là binh có tiết chế. Nếu chỉ một là thắng lớn, hoặc một là
thua lớn, thì đó chỉ là may mắn mà được thành công. Cho nên Tôn Võ nói rằng:
Tướng đánh giỏi luôn luôn đứng vào thế không thua nhưng không bỏ lỡ cơ hội đánh
bại quân địch. Đó là nhờ sự tiết chế ở nơi ta vậy.
61.- CÁC ĐIỀU CHỦ YẾU
TRONG BINH PHÁP:
Vua Đường Thái Tôn hỏi Lý Tịnh rằng:
- Trong binh pháp, những điều thâm yếu nhất là gì?
Lý Tịnh đáp:
- Thần thường chia ra ba bậc để cho học giả nghiên cứu dần
dần.
Thứ nhất là đạo
Thứ hai là trời đất
Thứ ba là tướng pháp
Lý thuyết về đạo rất là tinh vi. Điều mà dịch học gọi là
thông minh, duệ trí, thần võ nhưng không cần phải giết người, chính là cái ấy.
Lý thuyết của trời là âm dương, lý thuyết của đất là khó dễ.
Kẻ dùng binh có thể lấy âm, đoạt dương, lấy khó đánh dễ. Mạnh Tử gọi thiên
thời, địa lợi, chính là cái ấy.
Lý thuyết của tướng pháp là dùng người, dùng vật cho có hiệu
quả. Sách Tam Lưọc nói được kẻ sĩ là tốt, Quản Trọng nói đồ sắc bén, bền bĩ,
chính là cái ấy.
62.- SÁCH LƯỢC:
Vua Đường Thái Tôn nói: Tuy nhiên, ta cho rằng không đánh mà
khuất phục được binh của người, đó là thượng sách. Trăm đánh trăm thắng là
trung sách. Đào hào sâu, đắp lũy cao để tự phòng thủ là là hạ sách. Lấy ba bậc
ấy cũng có thể so sánh với ba bậc trong sách của Tôn Võ.
Lý Tịnh đáp: Xem văn và xét việc cũng thấy có chỗ sai biệt.
Trương Lương, Phạm Lãi, Tôn Võ bỗng nhiên đi biệt tích, không biết là đi đâu,
nếu không phải là hạng người biết đạo, thì sao có thể làm được như thế? Như
Nhạc Nghị, Quản Trọng, Gia Cát Lượng đánh thì thắng, giữ thì vững, nếu không
biết xét thiên thời, địa lợi thì sao có thể làm được như thế? Sau nữa Vương
Mãnh giữ nhà Tần, Tạ An giữ nhà Tần, nếu không biết dùng tướng súy, chọn nhân
tài đề giữ gìn hoàn bị, sao có thế làm được như thế? Cho nên người học tập về
binh pháp, trước hết đi từ bậc dưới, để tiến lên bậc giữa, rồi từ bậc giữa tiến
lên bậc trên, ắt là dần dần có thể đi tới chỗ sâu xa. Nếu không làm như thế thì
chỉ là nói suông, dầu có chép và đọc tụng cũng vô ích, không thể dùng được vậy.
Vua Thái Tôn nói: Các đạo gia rất kỵ việc ba đời làm tướng,
nên không dám truyền bừa bãi mà cũng không dám truyền, khanh nên cẩn thận về
chỗ ấy.
Lý Tịnh lạy tạ mà lui về, truyền hết sách binh pháp cho Lý
Tích.
63.- ĐỨC TÍNH:
Binh ở chốn chiến trường, đứng vào nơi chết chóc, quyết chết
thì được sống, cầu sống thì phải chết. Người tướng giỏi giống như đứng trên
thuyền thủng đáy, nằm dưới nhà đang cháy, hoàn cảnh ấy khiến cho kẻ có cơ trí
cũng không kịp mưu tính được gì, kẻ dõng cảm cũng không kịp nổi giận, như thế
mới có thể chống cự với quân địch. Cho nên trong các điều hại của sự dụng binh,
sự do dự là lớn nhất, tai nạn của ba qua sinh ra do sự hồ nghi.
Cho nên năm điều hay giỏi của tướng súy là:
Thứ nhất: sửa trị
Thứ hai: phòng bị
Thứ ba: quả cảm
Thứ tư: kỷ luật (giới cấm)
Thứ năm: giản ước.
Biết trị yên thì có thể trị nhiều người giống như trị ít
người.
Biết phòng bị thì đi ra cửa giống như đi gặp địch.
Có tính quả cảm thì khi gặp địch, chẳng còn cầu sống.
Biết khép vào kỷ luật thì khi gặp nguy nan, cũng giống như
lúc bắt đầu đánh.
Có tính giản ước thì ban pháp lệnh rõ ràng mà không phiền
phức.
Khi chịu mệnh rồi, nguời tướng không kịp từ giã gia đình,
phá địch xong rồi mới nói chuyện trở về, đó là lễ nghi của tướng súy.
Cho nên ngày ra binh, chỉ mong chết vinh mà không cầu sống
nhục.
64.- THAM MƯU:
Việc binh có bốn quân cơ:
Thứ nhứt: khí cơ
Thứ nhì: đia cơ
Thứ ba: sự cơ
Thứ tư: lực cơ
Quân dầu có ba cánh, đông tới trăm vạn, mọi việc sắp bày to
hay nhỏ đều do ở một người: đó là khí cơ.
Đường sá chật hẹp, hiểm trở, núi cao bít nghẽn, một người
trấn giữ có thể ngăn chận một ngàn người không qua được, đó là địa cơ.
Khéo sắp đặt việc gián điệp khiến khinh binh lui tới phân
tán kắp nơi, khiến cho vua tôi oán nhau, trên dưới đổ lỗi cho nhau, đó gọi là
sự cơ.
Biết rõ bốn điều ấy, có thể làm tướng súy được.
(*)Không thấy nói đến phần lực cơ.
65.- NGHIÊM CHỈNH:
Chiêng trống phải làm cho tai khiếp uy
Cờ xí phải làm cho mắt khiếp uy
Cấm lệnh, hình phạt phải làm cho tâm khiếp uy
Âm thanh làm cho tai khiếp uy thì không thể không trong
trẻo.
Màu sắc làm cho mắt khiếp uy thì không thể không sáng.
Hình pháp làm cho lòng khiếp uy thì không thể không nghiêm.
Ba điều ấy mà không hẳn hoi đúng đắn thì dầu được nước cũng
sẽ bị địch đánh bại.
Cho nên mới nói rằng: Tướng vẫy tay về phía nào, thì không
thể không đi theo phía ấy, tướng chỉ tay vào nơi nào thì không thể không tới
nơi ấy mà chết.
66.- UY QUYỀN VÀ TÀI
ĐỨC:
Kẻ làm tướng, trời không chế ngự được, đất không chế ngự
được, người không chế ngự được, không thể chọc giận, không thể dùng của cải mua
chuộc. Lòng nóng giận, tai điếc mắt mù, lấy ba cái ấy để dẫn dắt người, điều ấy
thực là khó.
67.- XỬ THẾ:
Các điều gian lao của quân đội, tướng súy phải nếm trải
trước đã. Trời nắng không che lọng, trời lạnh không mặc áo cầu dầy, gặp chỗ
đường khó thì xuống đi chưn; giếng nước trong quân đào xong, tướng mới được
uống nước; cơm của lính nấu chín rồi, tướng mới được ăn; lũy trong quân xây xong
rồi tướng mới được nghỉ; khi cực nhọc hoặc khi nhàn hạ, tướng phải cùng sống
với quân lính: như thế tuy dùng binh lâu ngày mà quân đội vẫn mạnh mẽ, hăng
hái.
68.- KHINH VÀ SỢ:
Dân không thể có hai ý. Sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì
khinh ta. Thấy bị khinh thì bại, giữ được uy thì thắng. Nếu một tướng súy hiểu
rõ nguyên tắc ấy thì các lại sĩ sợ tướng ấy lắm.
Lại sĩ sợ tướng, thì sĩ tốt sợ lại sĩ và quân địch sẽ sợ sĩ
tốt của ta.
Cho nên muốn biết phép thắng bại thì trước hết phải biết cân
nhắc hai viêc khinh sợ.
69.- UY NGHIÊM VÀ ÂN
HUỆ:
Nếu lòng người chẳng vui thuận thì ta không thể sai khiến
họ, nếu lòng người chẳng uy nghiêm thì ta không thể thành công. Dưới thương yêu
thì thuận, trên uy nghiêm thì ngay thẳng. Thương yêu thì không ngay thẳng, uy
nghiêm thì không xúc phạm. Cho nên bậc tướng giỏi chỉ lo hai việc thương yêu mà
lập uy mà thôi.
Uy nghiêm nhờ không đổi,
Ân huệ bởi kịp thời
Cơ trí nhờ ứng biến
Đánh được nhờ trị khí
Công hãm nhờ ý bày
Giữ kỹ nhờ sắp ngoài
Không lầm nhờ tính số
Không nguy nhờ dự bị
Cẩn thận do sợ nhỏ
Trí dũng nhờ coi lớn
Trừ hại do dám giết
Được người nhờ người dưới
Khinh lờn bởi dùng ngờ
Ác nghiệt tại hay giết
Thiên lệch bởi lo riêng
Chẳng lành vì nghe ác
Quá độ vì lấy hết của dân
Không sáng vì nghe can gián
Không đủ vì dấy bừa
Cạn hẹp vì xa hiền
Mang họa bởi tham lợi
Mang hại vì gần người thấp
Mất vì không có chỗ giữ
Nguy khốn bởi không hiệu lệnh
70.- NHÂN NGHĨA:
Khi dùng binh, không được đánh thành không lỗi, không được
giết người vô tội.
Giết cha mẹ, anh em của người, bắt con cái của người làm tôi
tớ hầu thiếp, đó là cướp bóc. Cho nên việc binh chỉ là trừ bạo dẹp loạn, ngăn
chận điều bất nghĩa. Tại nơi dùng binh, nhà nông không bỏ ruộng, kẻ mua bán
không rời chợ, kẻ sĩ đại phu không rời nơi quan phủ. Sở dĩ các điều ấy được
thực hiện, đó là nhờ việc điều binh chỉ do tay một người. Nhờ đó dùng binh
không đổ máu mà lại được thiên hạ thương yêu.
71.- GIẾT VÀ THƯỞNG:
Giết là để làm sáng tỏ võ đức. Giết một người mà làm ba quân
chấn động, giết một người để muôn người làm điều lành thì nên giết.
Khi giết nên giết người lớn, khi thưởng nên thưởng người
nhỏ, nếu đáng giết dầu là người cao quý cũng giết, đó là phép tra xét người
trên của hình pháp. Thưởng cho đến kẻ chăn trâu cắt cỏ, đó là cách thưởng kẻ hạ
lưu. Có thể tra xét người trên, tưởng thưởng kẻ dưới, đó là võ đức của tướng
súy, cho nên bậc chúa loài người thường trọng tướng.
72.- UY QUYỀN:
Kẻ làm tướng, trên chẳng bị ngăn bởi trời, dưới chẳng bị
ngăn bởi đất, giữa chẳng bị ngăn bởi người. Cho nên việc binh là việc dữ, kẻ
nào tranh giành thì hại đức. Tướng là hạng quen giết người cho nên bất đắc dĩ
mới dùng tướng.
Trên chẳng có trời, dưới chẳng có đất, sau lưng chẳng có
vua, trước mặt chẳng có địch. Binh của một người như cọp như sói, âm thầm, rung
chuyển, thiên hạ đều phải sợ sệt.
73.- BIẾN HÓA:
Binh thắng giống như nước. Nước là vật rất mềm yếu, nhưng ở
trên chỗ gò núi hóa thành băng đá chẳng khác khi chuyên nhất thì sắc bén như
gươm Mạc Tà, cứng nhọn như sừng tê. Hình tượng của ba quân nếu biết biến hóa
theo phép kỳ chính thì thiên hạ không thể chống cự lại.
74.- NHÂN HÒA:
Cho nên mới nói rằng: Dùng kẻ hiền thì không cần chọn ngày
giờ mà chỉ cần lợi ích. Pháp luật sáng suốt, hiệu lệnh đắn đo thì không cần bói
toán, công việc cũng sẽ tốt lành. Biết quí trọng công lao thì không cần cầu đảo
cũng được phước may.
Lại có nói: Thời trời chẳng bằng đất lợi, đất lợi chẳng bằng
người hòa. Các thánh xưa chỉ biết thận trọng nhân sự mà thôi.
75.- TỔ QUỐC TRÊN
HẾT:
Ngày chịu mệnh tướng liền quên nhà, kéo quân đóng trại thì
quên người thân, cầm dùi đánh trống thì quên mình.
76.- PHÒNG NGỪA:
Khi Ngô Khởi ra trận, hai bên tả hữu dâng kiếm. Khởi nói
rằng: Tướng chỉ trông coi cờ trống, gập nguy nan thì quyết đánh, lo điều khiển
ba quân, đó là việc của tướng. Chỉ cầm một thanh kiếm, đâu phải là việc của
tướng.
Cho nên kẻ biết đạo ắt trước hết phải lo liệu, chẳng chịu
thất bại về sự không biết ngăn ngừa. Điều xấu là ở chỗ kẻ có công nhẹ dạ tiến
lên cầu đánh. Quân địch lo liệu ngăn ngừa ta, ta tới thì bị địch chế ngự. Cho
nên binh pháp nói rằng: Cầu có mà theo, thấy có thì giúp vào nên chủ nhân chẳng
dám chống cự, nếu xúc phạm thì bị đánh tan.
77.- MƯU TRÍ:
Lời nói bừa bãi, không cẩn thận thì sự phạm thượng không thể
ngăn ngừa. Nước lụt, sấm sét có thể làm cho ba quân loạn lạc. Bấy giờ phải dùng
mưu trí để trị yên, dẹp loạn. Thảo luận tại miếu đường để tìm kế hay. Luận việc
trao mệnh để thêm long trọng. Luận cách khắc phục gian nan để thêm sắc bén. Như
thế có thể đánh thắng nước địch và hàng phục họ.
78.- CHÂM NGÔN:
Việc binh có năm điểu cần nhớ:
- Làm tướng thì quên nhà
- Xông pha nguy hiểm thì quên người thân
- Đánh địch thì quên mình
- Quyết chết thì được sống
- Thắng gấp là hạ sách
*
* *
Trăm người mang đủ khí giới có thể hãm trận;
Ngàn người mang đủ khí giới có thể bắt địch giết tướng;
Muôn người mang đủ khí giới có thể hoành hành giữa thiên hạ.
*
* *
Chuyên nhất ắt thắng;
Ly tán ắt bại;
Trận dày kín thì vững chắc;
Tiên phong thưa thì thông suốt;
Lính sợ địch hơn sợ tướng mình thì bại.
Sở dĩ biết thắng bại là nhờ so sánh tướng nhà với quân địch.
Tướng nhà và quân địch cũng giống như cân và quả cân vậy.
Yên tĩnh thì trị.
Dĩ gấp thì loạn.
79.- SÁU ĐỨC:
Người xưa đuổi giặc không quá trăm bước, treo cờ xí không
quá hai xá (*), đó là bày tỏ đức lễ. Không dồn kẻ yếu vào thế cùng và thương
xót người kẻ bị thương tích và bệnh tật, đó là bày tỏ đức nhân. Thành thực tỏ
bày ra, đó là làm sáng tỏ đức tín. Giành nhau điều nghĩa mà chẳng giành nhau
điều lợi, đó là bày tỏ đức nghĩa. Lại có thể cởi áo ra, đó là bày tỏ lòng dũng
cảm. Biết đầu biết đuôi, đó là bày tỏ trí tuệ. Đem sáu đức ra mà khuyên dạy cho
hợp thời để làm giềng mối cho dân chúng, đó là phép chánh trị của người xưa.
(*) Xá: ba mươi dặm.
80.- TRIỀU ĐÌNH VÀ
QUÂN NGŨ:
Thời xưa những kẻ dung túng trong triều đình không được vào
quân ngũ, những kẻ dung túng trong quân ngũ không được vào triều đình. Những kẻ
dung túng trong quân ngũ được vào triều đình thì đức hạnh của nhân dân bị hư
hoại. Nếu những kẻ dung túng trong triều đình được vào quân ngũ thì quân ngũ sẽ
yếu ớt.
Cho nên trong nước, ngôn ngữ văn nhã và ôn hòa, tại triều
mọi người đều cung kính khiêm tốn, lo sửa mình để đối xử với mọi người. Mọi
người không được triệu thì không tới, không được hỏi thì không nói, khó tới dễ
lui.
Trong quân lữ kháng chiến vững vàng, trong hàng ngũ thi đua
hăng hái. Mặc quân phục, mang giáp trụ thì không lạy, ngồi trên binh xa thì
không làm lễ, canh giữ ở trên thành thì không bỏ chạy, gặp cảnh nguy nan thì
không tỏ ra yếu hèn.
Cho nên nghi lễ và quân pháp là bề ngoài và bề trong, văn và
võ là tay mặt và tay trái.
81.- LÒNG NGƯỜI, SỨC
MẠNH, TẬP LUYỆN, CHIẾN ĐẤU:
Lòng của tướng và lòng của quân sĩ là lòng của ta. Lính, xe,
trâu, ngựa khỏe khoắn no đủ đó là sức mạnh. Việc răng dạy cốt là dự phòng, việc
chiến đấu cốt là tiết độ. Tướng quân là thân mình, sĩ tốt là tay chưn, hàng ngũ
là các ngón.
82.- THỜI TRỜI, TÀI
SẢN, TÀI NĂNG:
Muốn chiến đấu phải được thời trời, phải có tài sản, phải
thực khéo giỏi.
Ngày giờ chẳng sai chệch, bói được quẻ tốt và hành động kín
nhẹm, đó là được thời trời.
Dân chúng có đủ, nhờ có đủ mà làm điều tốt lành, đó là có
tài sản.
Người được luyện tập, trận bày sắc bén, sắp đặt các việc hết
mức để dự bị, đó là khéo giỏi.
83.- GÁI TƠ VÀ THỎ:
Lúc đầu binh giống như gái tơ, nhưng về sau khi địch mở cửa
thì chạy lẹ như thỏ, địch không kịp chống cự.
84.- TINH THẦN:
Người người đều ngay thẳng, lời lời đều nóng bỏng như lửa.
85.- PHƯƠNG CHÂM DÙNG
BINH:
Chiến xa lấy sự dày kín làm kiên cố, lính bộ lấy sự ngồi giữ
làm vững chắc; giáp trụ lấy sự nặng nề làm bền bỉ; binh lấy sự nhẹ nhàng làm ưu
thắng.
Gửi thư từ để kết thân giao hay tuyệt giao, đó gọi là lo
tính đến cùng cực (dứt lo nghĩ); chọn binh tốt hay xấu, đó gọi là làm người
thêm mạnh; bỏ hay dùng, cho ăn hay bắt nhịn, đó gọi là dò ý người: đó là phép
chánh trị của thời xưa.
86.- NĂM ĐIỀU KIỆN:
Phép dùng binh buộc năm điều kiện: nhân ái, tín thực, trí
mưu, dõng cảm, uy nghiêm, thiếu một điều cũng không thể được.
87.- BA THẾ:
Việc hành binh có ba thế lớn: một là trời, hai là đất, ba là
người.
Thế trời là trời trăng trong sáng, năm sao đúng độ, sao chổi
không sinh, thời tiết điều hòa.
Thế đất thuận lợi là thành cao, bờ dốc, nước rộng ngàn dặm,
cửa đá, động hẹp, đường đi khúc khuỷu như ruột dê.
Thế người là chúa thánh, tướng hiền, ba quân giữ lễ, sĩ tốt
tuân mệnh, lương thực và giáp trụ đầy đủ, chắc chắn.
Tướng giỏi thì nhân thời trời, dùng thế đất, dựa vào lợi
người, cho nên hướng vào nơi nào địch cũng không đánh lại được, đó là nhờ hoàn
toàn vậy.
88.- NĂM TÀI VÀ MƯỜI
LỖI:
Tướng có năm tài và mười lỗi.
- Năm tài ấy là dũng,
trí, nhân, tín, trung.
Dũng thì không để cho ai xúc phạm mình.
Trí thì không rối loạn.
Nhân thì thương dân.
Tín thì không lừa dối.
Trung thì không hai lòng.
- Mười lỗi là:
Dõng cảm mà khinh chết.
Làm gấp rút mà lòng nôn nóng.
Tham lam mà mong lợi.
Nhân ái mà bất nhẫn.
Có mưu trí nhưng lòng khiếp sợ.
Tín thực nhưng hay tin người.
Có tánh liêm khiết nhưng chẳng thương người.
Có mưu trí nhưng lòng trễ biếng.
Có tánh cương nghị nhưng cậy mình.
Có tánh nhu nhược mà thích dùng người.
Dõng cảm mà khinh chết thì có trở nên hung dữ.
Làm gấp mà lòng nôn nóng thì có thể bị làm chậm trễ.
Tham lam mà mong lợi thì có thể hối lộ (đút lót).
Nhân ái mà bất nhẫn thì có thể khuấy nhọc.
Có mưu trí nhưng lòng khiếp sợ thì có thể dồn vào chỗ cùng
quẫn.
Tín thực mà hay tin người thì có thể bị lừa dối.
Liêm khiết mà không thương người thì có thể bị khinh lờn.
Có mưu trí nhưng lòng trễ biếng thì có thể bị đánh úp.
Cương nghị nhưng cậy mình thì có thể thờ người.
Nhu nhược mà thích dùng người thì có thì có thể bị lấn hiếp.
89.- DÙNG NGƯỜI:
Phải biết sử dụng những kẻ có mưu trí, những kẻ dõng cảm,
những kẻ tham lam, những kẻ ngu ngốc.
Những kẻ mưu trí thì thích lập công.
Những kẻ dõng cảm thích thực hành chí hướng của mình.
Những kẻ tham lam thích chạy theo lợi lộc.
Những kẻ ngu ngốc không nhìn thấy cái chết.
Tùy theo tánh tình của mỗi người mà dùng họ, đó là phép dùng
người vi diệu của quân lữ.
90.- TÁM ĐIỀU TỆ HẠI:
Trong nghề làm tướng có tám điều tệ hại:
Thứ nhứt: Tham lam cầu mong không biết chán
Thứ hai: Ghen ghét kẻ hiền tài
Thứ ba: Tin kẻ dèm pha, ưa kẻ nịnh hót
Thứ tư: Liệu lường về người mà chẳng liệu lường về mình
Thứ năm: Do dự mà không quyết định được
Thứ sáu: Mê say rượu ngon, sắc đẹp
Thứ bảy: Thích việc dối trá nhưng lòng hãi sợ
Thứ tám: Nói năng bừa bãi mà chẳng giữ lễ nghi.
91.- PHẨM CÁCH CỦA
TƯỚNG SÚY:
Người tướng có nhiệm vụ nguy hiểm, bởi vì nhiệm vụ quan
trọng ắt phải nguy hiểm. Cho nên người tướng giỏi không ỷ mạnh, không cậy thế,
được thương yêu mà không mừng, bị lăng nhục mà không sợ hãi, thấy lợi mà không
ham, thấy rượu ngon sắc đẹp mà không mê say, một lòng liều thân vì nước mà
thôi.
92.- ĐIỀU MONG ƯỚC:
Bốn điều mong ước là:
- Đánh thì mong dùng được kế lạ.
- Mưu đồ thì mong được kín nhẹm.
- Quân lính thì mong được yên tĩnh.
- Lòng người thì mong được chuyên nhất.
93.- TƯỚNG GIỎI:
Đức tánh của người tướng giỏi là: cứng rắn mà không bị bẻ
gẫy, mềm mỏng mà không bị vày vò. Cho nên có thể dùng yếu để chống mạnh, dùng
mềm để chống cứng. Mềm mãi, yếu mãi thì sẽ bị tước đoạt. Cứng mãi mạnh mãi thì
sẽ bị thất bại. Không cứng, không mềm, đó là lẽ thường của đạo.
94.- HAI TÁNH XẤU:
KIÊU CĂNG VÀ BIẾNG NHÁC:
Người tướng không thể kiêu căng. Kiêu căng thì thất lễ. Thất
lễ bị người rời bỏ. Bị người rời bỏ thì quân lính sẽ phản loạn.
Người tướng không thể biếng nhác, nếu biếng nhác thì việc
tưởng thưởng không được thi hành chu đáo, sĩ tốt sẽ không hết lòng vâng mệnh,
quân đội sẽ không lập công, nước nhà sẽ bị hư hoại, giặc cướp sẽ đầy rẫy.
Khổng Tử nói: Nếu có người tài giỏi như ông Chu Công, nhưng
kiêu căng và biển lận thì kẻ ấy không dùng được, không cần xét tới các đức tánh
khác.
95.- NĂM ĐỨC TÍNH:
- Cao quý, trong sạch để khuyên đời
- Hiếu kính để nêu danh
- Tín nghĩa để giao du với bạn bè
- Nhân ái để dung người
- Hết sức để lập công.
Đó là năm đức tính của người tướng.
96.- TÁM VIỆC XẤU:
- Có mưu trí mà không phân biệt được phải trái.
- Biết lễ nghi mà không dùng được bậc hiền lương.
- Làm chính trị mà không chỉnh đốn được hình pháp.
- Giàu mà không cứu giúp được kẻ nghèo.
- Có trí thức mà chẳng có thể chuẩn bị khi việc chưa thành
hình.
- Lo toan mà không phòng bị được việc nhỏ kín.
- Khi thành đạt mà không thể tiến cử kẻ mà mình biết khả
năng.
- Thua mà không thể tự mình ngăn mình đừng hủy báng.
Đó là tám việc xấu.
97.- KHINH NGƯỜI:
Kinh thư nói rằng: Khinh lờn người quân tử thì không thể
được lòng hết mọi người, khinh lờn kẻ tiểu nhân thì không thể dùng hết người.
98.- PHÉP DÙNG BINH:
Điều cốt yếu trong việc dùng binh là: cầm nắm lòng dạ của
mọi anh hùng, thi hành nghiêm chỉnh việc thưởng phạt, bao gồm nghề văn nghiệp
võ, kiêm cả hai thuật cứng mềm, xem hết các thuyết lễ nghĩa, trước dùng đức rồi
sau mới dùng võ lực, yên tĩnh như cá lặn, di chuyển mau lẹ như con rái cá, phá
tan chỗ kín liền của giặc, bẻ gãy chỗ mạnh của giặc, dùng cờ xí rực rỡ, ban
hiệu lệnh bằng chiên trống, lui như núi dời, tiến như gió mưa, dấy binh như
xuống dốc, đánh mạnh như cọp dữ, bức bách nhưng dung nạp địch, lấy lợi để dụ
địch, dùng lễ để giữ địch, tự hạ mình để địch sinh kiêu căng, kết thân để ly
gián địch, làm cho ta thêm mạnh, mà trái lại làm cho địch suy yếu.
99.- CHÁNH TRỊ CỦA
TƯỚNG SÚY:
Ai bị nguy khốn thì làm cho họ yên ổn, ai sợ sệt thì làm cho
họ vui lòng, ai phản nghịch thì đem họ trở về, ai bị oan ức thì giải cứu họ, ai
cường thắng thì đè nén họ, ai yếu đuối thì nâng đỡ họ, ai nhiều mưu kế thì gần
gũi họ, ai dèm pha thì lật tẩy họ, ai được của cải thì cho họ, không ỷ sức mạnh
mà khinh địch, không cậy giầu có để tỏ vẻ kiêu ngạo đối với người, không cậy
được yêu mến để thị uy, tính toán trước rồi sau mới dấy binh, biết chắc thắng
rồi sau mới đánh, được ngọc lụa không được dùng làm của riêng, được con trai,
con gái không được tự sai dùng. Như thế, khi sửa trị và ban bố mệnh lệnh mọi
người đều tình nguyện chiến đấu, dùng binh không đổ máu nhiều mà địch tự thất
bại vậy.
100.- TAY CHÂN CỦA
TƯỚNG SÚY:
Bậc tướng súy ắt phải có kẻ tay chân làm tim bụng, có kẻ tay
chân làm tai mắt, có kẻ tay chân làm móng răng. Nếu không có người làm tim bụng
thì cũng giống như người đi đêm không đuốc, không có người làm tai mắt cũng
giống như ở chỗ tối tăm không biết cách vận động, không có người làm móng răng
cũng giống như người đói ăn vật độc không thể nào khỏi chết. Cho nên người
tướng giỏi phải có những kẻ nghe rộng, nhiều mưu trí làm tim bụng, phải có
những kẻ trầm lặng, dò xét kỹ càng, cẩn thận, kín đáo làm tai mắt, phải có
những kẻ gan dạ, mạnh dạn làm móng răng.
101.- TRÍ VÀ NGU:
Dùng ngu để chống trí là nghịch, dùng trí để chống ngu là
thuận, dùng trí để chống trí là có cơ mưu.
102.- BA CƠ HỘI:
Có ba đường lối:
- Thứ nhất là công việc;
- Thứ hai là thế lực;
- Thứ ba là tình cảm.
Cơ hội của công việc đã xẩy tới mà không ứng biến được, là
không có trí thức.
Cơ hội của thế lực đã chuyển tới mà không mưu đồ được là
không có tài năng.
Cơ hội của tình cảm đã phát sinh mà không thi hành được là
không mạnh dạn.
Người tướng giỏi ắt nhân cơ hội mà xếp đặt để thắng trận.
103.- LỀ LỐI:
Khi ra quân, phải có lề lối. Mất lề lối thì phải gặp việc
bất lợi. Lề lối có 15 thứ là:
Thứ nhứt: Biết lo liệu, nghĩa là rành rẽ về việc gián điệp
Thứ hai: Biết nói, nghĩa là giữ gìn lời nói
Thứ ba: Mạnh dạn, nghĩa là đánh với số đông mà không nhiễu
loạn
Thứ tư: Liêm khiết, nghĩa là thấy lợi mà vẫn nghĩ đến điều
nghĩa
Thứ năm: Công bằng, nghĩa là thưởng phạt đều nhau
Thứ sáu: Nhẫn nhịn, nghĩa là giỏi chịu điều xấu
Thứ bảy: Khoan hồng, nghĩa là dung nạp người
Thứ tám: Tín thực, nghĩa là nhận lời một cách khó khăn
Thứ chín: Cung kính, nghĩa là giữ lễ đối với các bậc hiền
tài
Thứ mười: Sáng suốt, nghĩa là không dung nạp các điều sai
lầm
Thứ mười một: Cẩn thận, nghĩa là không làm điều trái lẽ
Thứ mười hai: Nhân ái, nghĩa là giỏi nuôi dưỡng sĩ tốt
Thứ mười ba: Trung nghĩa, nghĩa là liều thân vì nước
Thứ mười bốn: Giữ phận, nghĩa là biết dừng, biết đủ
Thứ mười lăm: Có mưu trí, nghĩa là tự lo cho mình rồi sau lo
cho người
104.- TƯỚNG LÀ GỐC:
Vả lại nước lấy binh làm gốc, binh lấy tướng là gốc, sĩ tốt
lấy tướng làm chủ. Bởi thế muốn có binh mạnh để đánh thắng hoặc giữ vững thì
trước hết phải biết dùng tướng, tìm được người phò tá rồi sau mới có thể thị uy
giữa thiên hạ, làm cho mọi rợ bốn phương phải tới hàng phục, đó là gốc lớn của
kẻ được nước.
105.- PHÒNG THỦ VÀ
TẤN CÔNG:
Tướng chỉ biết dùng phép chính mà không dùng phép kỳ, đó là
tướng phòng thủ.
Tướng chỉ biết dùng phép kỳ mà không dùng phép chính, đó là
tướng chuyên về chiến đấu (tấn công).
Tướng chuyên về kỳ hay chuyên về chính đều có thể giúp nước
được cả.
106.- QUAN SÁT:
Khi dấy binh, lập dinh, đánh trận, hãy xem cờ xí lay động
thế nào, lắng nghe tiếng chiêng trống, tính toán ngày giờ để xem điềm tốt xấu,
tùy theo cách chuyển vận của năm hành, tùy theo sự ra vào của thần vị, để tùy
cơ ứng biến mà dùng binh.
107.- THIÊN TƯỚNG:
Nếu có bậc thiên tướng thì quân địch không biết quân ta từ
đâu mà tới, thực giống như thần linh dùng binh. Quân ta không biết tướng ấy làm
gì. Tướng ấy động hay tĩnh đều có tiết độ phương hướng, nắm sự thắng bại trong
tay, thấy trước lòng dạ của trời đất quỷ thần nên có thể làm cho binh sĩ yên
lòng.
108.- TƯỚNG CẦM NẮM
HẾT THẢY:
Trong biên giới, việc của trăm họ đều giao cho tướng.
Ngoài biên giới, việc của nước ngoài cũng giao cho tướng.
109.- KHÔNG CẦN DÙNG
BINH:
Ngạn ngữ nói rằng:
Tướng văn, tướng võ hiểu rành việc nước thì không cần dùng
binh.
110.- ĐẠI TƯỚNG:
Biết mềm, biết cứng; tài hoa mà mạnh dạn; dõng cảm mà mưu
cao; tròn nên có thể vận chuyển; quay về mà ngay thẳng; thông hiểu khắp muôn
loài mà lòng muốn giúp thiên hạ; người thông thạo các điều trên có thể gọi là
bậc đại tướng.
111.- NƯỚC MẠNH HAY
YẾU TUỲ THUỘC VÀO TƯỚNG SUÝ:
Cho nên nói rằng: tướng súy là người giúp nước, giúp chu đáo
thì nước mạnh, giúp sơ hở thì nước yếu. Dùng tướng ắt phải xem dáng mạo, xét
thần khí để biết lòng dạ như thế nào.
Đặt làm vua cũng do nơi tướng, chọn người hiền tài để trao
quyền bính, cất nhắc mà chẳng nghi ngờ, tướng súy ắt bên trong phải ứng biến
cho ngay thẳng, bên ngoài phải xử sự phải thuận mệnh. Ứng biến ngay thẳng thì
quân kỷ nghiêm minh, xử sự thuận mệnh thì bề tôi giữ tròn trinh tiết, dấy binh
chống địch há chả là nạn chết chóc hay sao?
112.- TÀI NĂNG CỦA
TƯỚNG SÚY:
Việc thành bại của quân lữ đều có thể trông thấy ở người
tướng, há là hành vi của người tướng hay sao? Hành vi của người tướng là việc
dùng. Trí ngang với muôn người mà nếu không dùng được muôn người thì cũng giống
như kẻ ngu. Võ dũng hơn ba quân thì cũng giống như kẻ yếu đuối. Kẻ giỏi làm
tướng thì đường đường chính chính nhưng cũng biết biến hóa, cứng cỏi nhưng biết
thương người, nhân từ nhưng có thể chém giết, mạnh dạnh nhưng hiểu biết rành
rẽ, có đầy đủ kế sách để chế ngự bọn lại sĩ, có thể lay chuyển mọi trở lực, lập
được công lao to tát để trừ họa, dẹp loạn.
113.- CHỌN TƯỚNG:
Quốc gia dùng binh, ban bố luật pháp, quyền sinh sát đều ở
trong tay đại tướng. Người tâm phúc của nước nắm giữ vận mệnh của ba quân, đâu
có thể tuyển dụng bừa bãi được?
Nếu muốn trao mệnh cho tướng thì phải xem trước thử người
tướng có được chân thành hay không. Muốn biết có được hay không, phải quan sát
bốn điều:
Thứ nhứt là vẻ mặt.
Thứ hai là lời nói.
Thứ ba là cử động.
Thứ tư là việc làm.
Sách Vạn Cơ Chi nói rằng: Tuy có quân đội trăm vạn, cũng
phải kiếm cho được bậc tướng súy nuốt địch rồi đem tất cả lợi khí của quốc gia
mà trao cho tướng ấy. Nếu không được người như thế, thì dùng tướng cũng vô ích.
114.- TÁM LOẠI TƯỚNG
SÚY:
Tướng súy có hai hạng lớn nhỏ, mỗi hạng có bốn thứ. Nếu
không thuộc vào tám loại ấy, sao đáng gọi là tướng?
Bốn loại tướng bậc
cao là:
- Thứ nhứt: Thiên tướng (xem mục số 107).
- Thứ hai: Địa tướng.
- Thứ ba: Nhân tướng.
- Thứ tư: Thần tướng.
Bốn loại tướng bậc
thấp là:
- Thứ nhứt: Uy tướng.
- Thứ hai: Cường tướng.
- Thứ ba: Mãnh tướng.
- Thứ tư: Lương tướng.
115.- ĐỊA TƯỚNG:
Hạng địa tướng có các đặc điểm sau này: Đến nơi nào thì quan
sát địa lý kỹ càng, núi đầm xa gần, rộng hẹp, khó dễ như thế nào, rừng rú thưa
dày như thế nào, khe lạch sâu cạn như thế nào. Nếu xem tướng ấy chỉ huy, thì
khi chiến thắng, trước và sau không trở ngại, trái và phải không ngưng trệ,
lính bộ và lính kỵ đi lại tiện lợi, qua và kích dùng rất thích hợp, quân lính
tới lui rất thuận tình, người và ngựa không bao giờ bị cùng khốn, công hay thủ
đều được tiện lợi, hành quân thì kiếm được vùng nhiều cỏ nước, người và ngựa
khỏi bị đói khát, dầu có rơi vào đất chết cũng sống sót, gặp đất nghịch thì
dùng thuận, gặp đất thuận thì dùng nghịch, không cần chọn đất khó hay đất dễ
đều có thể yên ổn để hành động về sau, hành động rồi thì quyết thắng đó là hạng
địa tướng.
116.- NHÂN TƯỚNG:
Hạng nhân tướng có các đặc điểm sau này: Không tham tiền
của, làm việc có tiết độ, chẳng mê tửu sắc, giữ mình theo lễ, đem lòng trung
thờ bề trên, cùng chia xẻ vui buồn với sĩ tốt, đoạt của cải của địch mà không
dành riêng, bắt được đàn bà con gái mà không giữ riêng, dùng mưu mà biết dung
hòa, nghi ngờ mà quyết đoán, dõng cảm mà không xúc phạm ai, nhân ái mà không bỏ
luật, trừng phạt tội nhỏ, tha thứ lỗi lớn, khi phạt tội không chừa kẻ thân
thuộc, khi thưởng công không chừa kẻ thù địch, giúp đỡ người già nua, vỗ về trẻ
thơ ấu, an ủi kẻ sợ sệt, làm vui lòng kẻ lo buồn, phán xét kẻ thưa kiện, tố cáo
kẻ nhũng lạm, trừ dẹp bọn giặc cướp, ức chế kẻ cường hào, che chở kẻ yếu đuối,
sai khiến kẻ dõng cảm, trừ giết kẻ ngang dọc, có kẻ đến hàng phục thì cho làm
lại chức cũ, ai mất thì trả lại cho họ, đuổi bỏ kẻ vong bản, ban tước cho kẻ
theo mình, kiềm chế kẻ hung bạo, gần gũi kẻ mưu trí, lìa xa kẻ dèm pha, được
thành mà không cần đánh, được đất mà không cần giữ, gặp địch cạn hẹp thì chờ
xem cách chúng biến hóa, gặp địch dối trá thì theo mệnh mà hành động, gặp cảnh
nghịch thì xem xét, gặp cảnh thuận thì tiến đánh, đó là hạng nhân tướng.
117.- THẦN TƯỚNG:
Hạng thần tướng có các đặc điểm sau này: Lấy trời để tỏ bày,
lấy đất để biến hóa, lấy người để sử dụng, lấy ba tướng để kiêm các việc ấy, đó
gọi là thần tướng.
118.- CƯỜNG TƯỚNG:
Hạng cường tướng có các đặc điểm sau này: Khi hành binh
không cần xét thiên thời địa lợi, dùng người không cần biết là mạnh dạn hay
nhát sợ, nghe có địch thì đi ngay ắt không ngờ lo, khi có ai trái lệnh, không
cần biết là tội to hay tội nhỏ, đều dùng hình pháp để xét xử, ai nghe tướng ấy
đều sợ hãi, ai chống lại thì quyết phá, đó là hạng cường tướng.
119.- MÃNH TƯỚNG:
Hạng mãnh tướng có các đặc điểm sau này: Không cần biết quân
đội nhiều hay ít, không cần biết địch mạnh hay yếu, ba quân đều tuân lệnh răm
rắp, quân có thể biến hóa hàng muôn ngàn cách khác nhau theo ngón tay chỉ huy,
ra quân bất ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một kiếm có thể xung phong đi
trước, khiến quân địch không kịp xoay trở, phải sợ mà tránh xa, đó là hạng mãnh
tướng.
120.- LƯƠNG TƯỚNG:
Hạng lương tướng có các đặc điểm sau này: Bên ngoài thì uy
nghiêm, bên trong thì dữ tợn, ở giữa thì mạnh mẽ, gồm kiêm tất cả ba tướng mạo
ấy, đó là hạng lương tướng.
121.- CÁCH DÙNG CÁC
LOẠI TƯỚNG:
Tướng là người mà nước nhà sai dùng.
Nước được thiên tướng, thì có thể chống cự với quân địch làm
trái đạo trời.
Nước được địa tướng, thì có thể chống cự với quân địch làm
trái đạo đất.
Nước được nhân tướng, thì có thể chống cự với quân địch làm
trái đạo người.
Nước được thần tướng, thì có thể chống cự với mọi địch thù
trong thiên hạ, mỗi lần dấy binh không hề tính toán sai lầm.
Uy tướng có thể giúp thiên tướng, cường tướng có thể giúp
địa tướng, mãnh tướng có thể giúp nhân tướng, lương tướng có thể che chở cho
bốn phương.
Tuy nói là mãnh tướng, cường tướng nhưng có thể hành động
mau lẹ, được việc. Nên các hạng tướng súy không thể dùng riêng một mặt. Như
trên là thể của tướng.
122.- ĐỨC HẠNH CỦA
TƯỚNG SÚY:
Hạnh của người tướng là không lưu luyến vợ con để tỏ rằng
mình liều thân vì nước. Về mệnh của Vua, tướng không dám khinh lễ nghi để tỏ
rằng mình tha thiết được trọng dụng. Khi tướng ở ngoài, có thể có lúc không
tuân lệnh Vua, mà chỉ ráng làm lợi cho nước nhà, đối với mình thì trong sạch,
đối với kẻ sĩ thí quí trọng.
Bởi thế cho nên nếu tướng súy không nghe lời khuyên can thì
các anh hùng sẽ lẩn tránh, tướng không theo kế sách hay thì mưu sĩ sẽ bỏ đi,
coi thiện ác như nhau thì kẻ hiền và người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lộn xộn
thì giềng mối sẽ tan rã, thường mừng thì thiếu uy nghiêm, thường giận thì lòng
người xa lìa, nói nhiều thì việc cơ mật phải tiết lậu, ham thích nhiều việc thì
tâm trí nghi ngờ, mê loạn; khoan dung thì làm cho quân sĩ cảm kích, hung bạo
thì làm cho quân sĩ tức giận.
Tướng chuyên quyền thì kẻ dưới quy lỗi về tướng, tướng tự
cho mình là tài giỏi thì kẻ dưới không có công trạng, tướng nghe lời dèm pha
thì kẻ ngay thẳng sẽ xa lìa, tướng làm việc tư tà thì kẻ dưới trộm cắp, tướng
lưu luyến chốn nội phòng thì sĩ tốt sinh ra dâm đãng.
123.- PHƯƠNG CHÂM CỦA TƯỚNG SÚY:
Khinh rẻ tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch;
Tránh xa các việc hiềm nghi để vượt lên;
Lặng lẽ lo xa để khỏi thất bại;
Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập công;
Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để qui tụ tình thương;
Nghe điều lành, đuổi bỏ kẻ dèm pha để tiến xa;
Trước đo lường, sau hành động để mà ứng biến;
Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới;
Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng công lao để sửa người;
Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người;
Coi rẻ sắc đẹp, quý trọng người để được người;
Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ nước;
Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang;
Cử động nhanh như gió, ngừng nghỉ lặng lẽ như gò núi;
Đánh trận như sấm sét, sắp đặt khéo léo như quỷ thần;
Suy tư như ảnh chiếu, mệnh lệnh như sương tuyết;
Nếu được như thế, tướng súy có thể đảm đương việc lớn của
quốc gia.
124.- LÒNG NHÂN ÁI
CỦA TƯỚNG SÚY:
Trong quân có bệnh tật, tướng phải thân hành chữa trị. Trong
quân có việc chết chóc, tướng phải khóc thương. Quân đóng giữ ở nơi xa thì cho
phép vợ đến thăm viếng. Khi làm lễ khao quân thì phải chia đều cho quân lính và
lại sĩ. Khi muốn dấy binh hoặc sắp đặt việc gì thì phải nhóm họp tất cả tướng
tá để bàn luận, mưu kế phải sắp đặt xong rồi sau mới đánh. Cho nên tướng súy
đối với quân lính phải có ban huệ “đổ rượu” ban ân “hút máu”. Ngày xưa Huỳnh
Thạch Công kể rằng: Có một lương tướng khi ai biếu bầu rượu lao thì ném xuống
sông rồi khiến tướng sĩ đón giòng nước mà uống. Một bầu rượu lao không thể làm
cho nước sông có mùi vị rượu thế mà ba quân cảm kích bởi ân huệ bèn đồng lòng
quyết chết. Lại kể chuyện Ngô Khởi cầm binh, có một lính tốt bị mụt nhọt, Khởi
thân hành điều trị và mút mụt nhọt, khiến cho ba quân cảm kích mà hết lòng đánh
giặc.
Cho nên sĩ tốt được cái vui vật trâu nấu rượu, chiến đấu
hăng say, thương yêu giúp đỡ chủ tướng như con em theo cha anh, như tay chân
che chở cho đầu mắt, không ai có thể chống cự lại được.
Nếu bóc lột làm cho sĩ tốt phải đau khổ, bắt chúng làm việc
nhọc nhằn, buông ra lời nói oán thù khó nghe, như thế là tướng súy xem sĩ tốt
như cỏ rác, thì sĩ tốt sẽ xem tướng súy như cừu thù, đến tình trạng ấy chỉ mong
cho hàng ngũ được đầy đủ cũng là việc rất khó, làm sao có thể trông mong quân
sĩ sẽ liều chết xông đến đánh địch? Đó là nói sơ lược về phép tướng súy an ủy
vỗ về quân sĩ.
125.- KIÊU CĂNG VÀ
NHỤT KHÍ:
Kẻ làm tướng không bao giờ thấy quân mình nhiều mà kiêu
căng, không bao giờ thấy quân mình ít mà nhụt chí. Không có con vật nào mạnh
như con hổ nhưng khi bắt heo chuồng mà bị dân cư đuổi thì cũng phải cong đuôi
mà chạy chẳng dám quay lui, như thế đủ hiểu rằng có thể lấy việc nghĩa để sai
khiến người.
Tướng kiêu căng thì phải thất bại. Kẻ làm tướng không thể
cậy rằng mình trí dũng mà khinh người. Tống Nghĩa sở dĩ đánh được Hạng Lương,
Bạch Khởi sở dĩ giết được Triệu Quát cũng vì lẽ ấy.
126.- KHÍCH ĐỘNG SĨ
TỐT:
Việc khích động sĩ tốt có nhiều cách:
- Hoặc lấy sự quả cảm để khích động: như Lưu Kỳ đời Tống giữ
Thuận Xương; gặp khi người Kim xâm lấn phía nam, Kỳ bèn đục và đốt cháy thuyền
bè, tỏ ý không chịu đi, để răn người nhà không được khuất phục trước quân địch.
- Hoặc lấy lòng trung nghĩa để khích động: như Trương Tuần
bày ra bức tượng của vua Đường, lạy khóc để trách sáu tướng, nhận đại nghĩa mà
chém họ, nhờ đó khuyến khích chí khí của quân sĩ.
- Hoặc lấy lòng chí thành để khích động: như Trương Tuần thề
quyết chết làm cho tướng sĩ phải thương tâm mà giặc bị tan vỡ. Vua Đường Đức
Tông nhận lỗi về mình mà trăm quan liều mình quyết chết.
127.- MƯỜI HAI CÁCH
CHẮC THẮNG:
Bậc vua của loài người biết phép chắc thắng, cho nên có thể
gồm kiêm việc rộng lớn để thống nhất chế độ, và thị uy giữa thiên hạ theo mười
hai cách sau này:
Thứ nhất là liên hình (hình pháp liên đới) nghĩa là những kẻ
giữ gìn đội ngũ sẽ cùng chịu một tội như nhau.
Thứ hai là địa cấm (đất cấm đi lại) nghĩa là ngăn cấm việc
đi đường để lùng bắt kẻ gian từ bên ngoài đột nhập vào.
Thứ ba là toàn quân (bảo toàn quân đội) có nghĩa là các thủ
lãnh nương tựa vào nhau, ba và năm giống nhau để liên kết với nhau.
Thứ tư là khai tái (mở cửa) nghĩa là chia đất làm giới hạn,
mọi người phải giữ vững, liều chết để làm tròn chức vụ.
Thứ năm là phân hạn (chia giới hạn) nghĩa là trái và phải
ngăn nhau, trước và sau chờ nhau, quân đóng vòng quanh giữ chắc, để đón hoặc để
ngăn.
Thứ sáu là hiệu biệt (số hiệu phân biệt) nghĩa là quân đàng
trước sắp đặt để tiến tới, khác với quân đàng sau, không được tranh nhau đi
trước hoặc leo trèo mất thứ tự.
Thứ bảy là ngũ chương (năm chương) nghĩa là sáng tỏ hàng
lối, đầu đuôi không loạn.
Thứ tám là toàn khúc (cong queo hết thảy) nghĩa là khúc
chiết theo nhau, đều chia, thành nhiều bộ phận.
Thứ chín là kim cổ (chiêng trống) nghĩa là cất nhắc kẻ có
công, trọng dụng kẻ có đức.
Thứ mười là trận xa (xe trận) nghĩa là cầm mâu liên tiếp
nhau, che mắt người lại.
Thứ mười một là tử sĩ (quân sĩ liều chết) là những kẻ tài
trí trong ba quân, cỡi chiến xa, tung hoành trước sau, dùng mẹo lạ để chế ngự
quân địch.
Thứ mười hai là lực tốt (lính mạnh) nghĩa là coi sóc mọi chỗ
không lay chuyển.
Dạy quân sĩ cho thành thục mười hai phép trên, ai trái lệnh
không được tha thứ. Được như thế thì: có thể làm binh yếu trở nên mạnh, làm
chúa thấp hèn trở nên tôn quý, làm mệnh lệnh yếu ớt trở nên mạnh mẽ, làm dân
chúng xa lìa trở nên thân yêu, làm cho khối đông nhân dân trở nên yên trị, có
thể giữ gìn đất đai rộng lớn, chiến xa không bao giờ bị nguy khốn, chỉ cần dùng
áo giáp bằng tơ mà không cần rèn giáp sắt, thế mà cũng làm cho thiên hạ phải
phục uy của mình vậy.
- Hoặc nêu điều lợi hại để khích động: như Dương Khánh giữ
Thành Đô, tuyển mộ hiền sĩ, tích trữ lương thực, trợ cấp cho nhân dân, dân Thục
luyện tập dao gậy để giúp quan quân làm cho rợ Man phải thua lớn. Lý Mục đời
Tống trấn giữ Dực Châu, được vật gì chia đều hết cho sĩ tốt.
- Hoặc lấy tiền của, vải lụa để khích động: Huỳnh Thạch Công
nói rằng: Được tiền của mà đem phân phát cho mọi người thì quân sĩ sẽ liều mình
quyết chết. Lý Mục đời Tống cũng làm giống như thế.
128.- CHUYÊN, PHÁP,
THÀNH, ĐẠO:
Quân đội áp dụng pháp luật cho mình, gọi là chuyên; buộc
người dưới phải sợ pháp luật thì gọi là pháp. Dùng binh không vì việc nhỏ,
chiến đấu không vì lợi nhỏ, gọi là thành; hành động kín đáo, lặng lẽ gọi là
đạo.
129.- CHÍ KHÍ:
Tướng là chí, ba quân là khí. Khí thì dễ động mà khó chế
ngự.
Nếu tướng trấn giữ chế ngự được khí thì những kẻ sợ hãi sẽ
yên định, sự phản trắc sẽ được dẹp yên, quân địch dầu đông tới trăm vạn cũng sẽ
bị đánh đuổi.
Chí ngay thẳng mà mưu thống nhứt, khí phát ra mà lòng dũng
cảm tăng gấp bội, thì chắc thắng.
130.- LỜI KHUYÊN:
Thấy hư thì tiến, thấy thực thì dừng. Chẳng thấy ba quân
đông đảo mà khinh địch. Chẳng thấy việc nhận mệnh làm trọng mà quyết chết,
chẳng thấy mình tôn quý mà khinh rẻ người, chẳng vì thiên kiến của riêng mình
mà hành động trái ngược với quần chúng, chẳng nghe lời biện thuyết mà cho là
đúng hẳn, quân sĩ chưa ngồi thì mình chớ nên ngồi, quân sĩ chưa ăn thì mình chớ
nên ăn, khi nắng rét đều phải như nhau, được như thế thì quân sĩ sẽ liều mình
quyết chết.
131.- GIỮ BÍ MẬT:
Việc của một người chớ để tiết lộ cho hai người biết. Ngày
mai phải đi nơi nào, ngày nay chớ tiết lộ ra. Phải kéo quân một cách kín đáo,
lặng lẽ, và cẩn thận đừng cho gián điệp hay biết gì. Điều bí mật trong công
việc chớ để tiết lộ ra ở lời nói. Điều bí mật trong lời nói chớ để tiết lộ ra ở
dáng mặt. Điều bí mật trong dáng mặt chớ để tiết lộ ra ở tinh thần. Điều bí mật
trong tinh thần, chớ để tiết lộ ra ở mộng mị. Có hành động nhưng giấu kín manh
mối, có sử dụng nhưng phải kín miệng. Nhưng điều nói được cũng không hại vì nói
cho biết để tỏ ra thành tín. Có điều vốn chẳng bí mật, mà làm ra vẻ bí mật.
132.- VIỆC CỦA TƯỚNG
SÚY:
Việc của tướng quân là yên tĩnh để được sâu kín, ngay thẳng
để sửa trị, bịt tai bịt mắt của sĩ tốt để chúng không biết gì, thay đổi mưu để
chúng không hiểu, thay chỗ ở đổi đường đi để không ai tính toán được điều gì.
Thời kỳ dấy binh cũng giống như trèo cao mà vứt thang đi.
Đem quân đi sâu vào đất chư hầu cũng giống như bắn tên, giống như xua đàn dê,
xua đi thì đi, xua lại thì lại mà chẳng biết phải đi đâu. Nhóm họp ba quân đông
đảo, ném chúng vào nơi nguy hiểm, đó là việc của tướng quân.
Luận về việc làm thì việc xưa khác việc nay. Việc nhiều thì
phép tắc cũng nhiều, thời thay đổi thì lý cũng thay đổi. Cho nên giỏi đọc binh
pháp ngàn xưa, thấy có chỗ không thích hợp thì chớ chấp nhận, thấy lời nói bậy
thì biết sai lầm, như thế cũng chưa đủ để biết quyết đoán, để phân biệt điều
nào đúng, điều nào sai.
Vật gì nổi phồng thì đi lên, nên đoạt lấy để mà thoát. Ngăn
cấm mà lại thi hành, răn đe mà lại làm ra, xét thưa mà đặt dầy, do một bên mà
được toàn thể, khi làm ra thì thấy kỳ diệu, bộ máy biến hóa tuần hoàn. Người ta
câu nệ vì phép tắc mà ta thì bày ra phép tắc. Ai đặt phép hay thì thần linh làm
sáng phép ấy.
133.- HỌC HỎI:
Xét tính mệnh để rõ nguồn gốc việc binh. Tìm tòi sử xưa để
thấy dấu vết của việc binh. Biết hết tượng số để thấu triệt tượng trưng của
việc binh. Biết thời vụ để thông suốt qui tắc của việc binh. Khảo sát khí cụ để
biết rõ các vật dụng trong nghề binh. Khi tĩnh có thể lập mưu mà không để tiết
lộ ra ngoài. Khi ra ngoài ắt tìm tòi điều mong muốn của người để sửa trị thiên
hạ.
134.- LỄ TƯỚNG:
Tướng mùa đông không mặc áo cầu, mùa hè không phẩy quạt, gặp
mưa không che lọng, đó gọi là lễ tướng, chẳng tự mình theo lễ thì không thể
biết sự nóng rét của sĩ tốt. Ra khỏi nơi quan ải, gặp đường bùn lầy, tướng phải
xuống bước đi bộ, đó gọi là lực tướng, nếu chẳng ráng sức thì chẳng biết sự lao
khổ của sĩ tốt.
Khi đóng quân, chờ quân đã sắp đặt xong, tướng mới vào quán
nghỉ, chờ thức ăn quân sĩ nấu chín xong, tướng mới ăn, quân không đốt lửa thì
tướng cũng không đốt lửa, đó gọi là ngăn điều muốn. Nếu tướng không ngăn điều
thèm muốn thì không biết sự no đói của sĩ tốt.
CHỌN LỰA ĐỂ HUẤN
LUYỆN
135.- CHIA LOẠI ĐỂ LUYỆN
TẬP:
Hỏi: Phép luyện tập sĩ tốt phải như thế nào?
Đáp: Trong quân nếu có những kẻ mạnh dạn, liều chết, không
sợ bị thương tích thì gom họ lại thành một toán gọi là quân xông pha gươm giáo
(quân cảm tử).
- Nếu có những kẻ trèo cao, vượt xa, nhanh chân, chạy giỏi,
thì gom họ lại thành một toán gọi là quan binh.
- Nếu có hạng vương thần thất thế muốn được lập công trở lại
thì gom họ thành một toán gọi là quân tử đấu (liều chết).
- Nếu hạng con em của tướng chết trận muốn báo thù cho tướng
ấy thì gom lại thành một toán gọi là quân tử phẫn (phẫn uất mà liều chết).
- Nếu có những kẻ nghèo khó tức giận muốn được thỏa chí thì
gom họ lại thành một toán gọi là quân tất tử (quyết chết).
136.- QUI CỦ:
Vua Đường Thái Tôn nói: Gia Cát Lượng nói là binh có quy củ
mà tướng bất tài cũng sẽ không thể thất bại, binh không có quy củ mà tướng tài
giỏi cũng không thể thắng được. Trẫm nghi ngờ rằng bàn luận ấy chưa được chí
lý.
Lý Tịnh đáp rằng: Võ Hầu nói như thế hơi quá đáng. Thần xét
Tôn Tử có nói rằng: Răn dạy và tập luyện không sáng suốt, lại và tốt thay đổi
không thường, bày trận ngang dọc, đó gọi là rối loạn. Từ xưa các trường hợp nhờ
quân ta rối loạn mà địch được thắng lợi không thể đếm xuể. Răn dạy không sáng
suốt có nghĩa là giáo huấn và kiểm soát không đúng theo phép xưa. Lại và tốt
không thường có nghĩa là tướng tá và quan lại giữ chức được lâu. Quân ta loạn
đem lại thắng lợi cho địch có nghĩa là quân ta tự tan vỡ, chớ không phải địch
đánh thắng ta. Bởi thế cho nên Võ Hầu nói là sĩ tốt có qui củ thì dầu tướng súy
là người tầm thường, binh ấy cũng không thất bại. Nếu sĩ tốt tự rối loạn, dầu
là tướng tài cũng phải chịu nguy hại, như thế không còn nghi ngờ gì nữa.
Vua Thái Tôn nói: Về phép giáo duyệt thì phải tín thực,
không thể sao nhãng.
Tịnh nói: Dạy mà đúng đạo thì quân sĩ vui lòng làm theo. Dạy
mà không đúng phép thì tuy sáng thúc giục, chiều quở trách cũng không ích gì
cho công việc. Hạ thần thường xuyên xét qui chế đời cổ, soạn được nhiều đồ hình
nhờ đó tổ chức được đạo binh có qui chế.
Vua Thái Tôn nói: Khanh hãy vì ta mà kể lại các trận pháp,
nhất là các đồ hình.
137.- TRẬN LỤC HOA:
Vua Thái Tôn nói: Trẫm cùng Lý Tích bàn luận về binh pháp
phần nhiều cũng giống với ý kiến của khanh, chỉ có khác là Lý Tích không cứu
xét đến xuất xứ. Hỏi khanh chế trận pháp lục Hoa từ thuật nào mà ra?
Tịnh nói: Tôi vốn học theo phép Bát Trận của Gia Cát Lượng,
trận lớn bọc trận nhỏ, các góc các cạnh đều liền nhau, khúc chiết đối diện
nhau. Đời xưa bày ra như thế, hạ thần theo đó mà vẽ đồ hình, cho nên bên ngoài
vẽ hình vuông, bên trong vẽ vòng tròn, do đó mà có tên trận là Lục Hoa.
Vua Thái Tôn hỏi: Trong tròn, ngoài vuông, vì sao gọi như
thế?
Tịnh đáp: Vuông sinh ở bộ, tròn sinh ở kỳ, dùng vuông làm
qui củ cho bộ, dùng tròn để nối vòng quanh, Như thế bộ số định ở đất, hàng nối
ứng với trời. Khi bộ được định, vòng nối được tề chỉnh thì sự biến báo không
loạn. Bát trận mà làm sáu là phép cũ của Võ Hầu.
Vua Thái Tôn nói: Vẽ hình vuông để thấy bộ, điểm vòng tròn
để thấy binh. Về bộ thì dạy phép dùng chân, về binh thì dạy phép dùng tay. Khi
tay chân đều được tiện lợi, như thế là quá nửa rồi chăng?
Tịnh nói: Ngô Khởi nói rằng: Xa mà không lìa, lui mà không
tan, đó là bộ pháp. Dạy quân sĩ cũng giống như bày cờ trên bàn, nếu không vẽ
đường cho cờ đi, thì làm sao đánh cờ được? Tôn Tử nói rằng: Đo đất đai để biết
rộng hẹp, dài ngắn, đo rồi thì phải ước lượng để biết nhiều ít, ước lượng rồi
thì phải tính số, tính số rồi thì phải cân nhắc để biết nặng nhẹ, cân nhắc rồi
thì sự thắng bại có thể quyết đoán được. Binh thắng giống như lấy quả dật (20
lạng) so với quả thù (1/24 lạng). Binh bại giống như lấy quả thù so với quả
dật, tất cả đều do sự đo lường vuông tròn cả.
Vua Thái Tôn nói: Sâu sắc thay lời nói của Tôn Tử. Không đo
lường thế đất xa hay gần, hình dạng rộng hay hẹp thì làm sao đặt ra tiết độ
được?
Tịnh nói: Tướng quân tầm thường có thể biết tiết độ được. Kẻ
đánh giỏi có thế đánh rất nguy hiểm, thời nhịp hành động của họ thật chớp
nhoáng, thế đánh giống như giương nỏ, thời nhịp giống như phóng tên.
Hạ thần theo thuật ấy, phàm khi lập đội đều để cách nhau
mười bước, trú đội cách sư đội hai mươi bước, mỗi khoảng cách một đội, lập một
chiến đội, phía trước tiến lên lấy năm bước làm tiết, nghe một tiếng giốc thì
các đội đều tản ra, đứng không cách nhau quá mười bước. Đến tiếng giốc thứ tư
thì những quân cầm thương đều quì xuống. Bấy giờ đánh ba tiếng trống, hô lên ba
tiếng, để chế ngự sự biến hóa của quân địch từ ba mươi đến năm mươi bước. Đến
khi gặp việc thì xếp đằng trước là chính, đằng sau là kỳ, để xem địch ra sao.
Đến khi đánh trống lần nữa thì sắp kỳ ở đằng trước, sắp chính ở đàng sau, chờ
địch đến để xem chỗ sơ hở, yếu ớt của địch. Trận Lục Hoa đại để là như thế.
138.- CỜ XÍ:
Vua Thái Tôn hỏi: Về phương sắc lấy năm cờ làm chính chăng?
Dùng cờ phan vẫy xông vào đánh làm kỳ chăng? Lấy phân hợp làm biến, lấy số đội
cho thích nghi chăng?
Tịnh nói: Hạ thần dùng theo phép xưa, phàm ba đội hợp lại
thì cờ dựa vào nhau mà không tréo nhau, năm đội hợp thì hai cờ tréo nhau, mười
đội hợp thì năm cờ tréo nhau. Thổi tiếng giốc, mở năm lá cờ tréo nhau thì một
lại tản ra làm mười, mở hai lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra làm năm, mở thứ
cờ dựa nhau mà không tréo nhau thì một lại tản ra làm ba. Binh tản thì lấy hợp
làm kỳ, binh hợp thì lấy tản làm kỳ.Dặn dò đôi ba phen rằng ba tản năm hợp rồi
trở về chính. Như thế bốn sư, tám đuôi có thể tập hợp được, phép sử dụng đội
ngũ mới thích nghi được.
Vua Thái Tôn khen hay.
139.- PHÉP HOẠCH ĐỊA:
Vua Thái Tôn hỏi: Sách Thái Công nói rằng: Đất vuông hoặc
600 bước, hoặc 60 bước, đều tiêu biểu cho 12 giờ, thuật ấy như sao?
Tịnh đáp: Vạch đất vuông 2200 bước, là hình khai phương. Mỗi
bộ chiếm đất vuông vức 20 bước, bề ngang 5 bước đặt một người, bề dọc 4 bước
đặt một người. Tất cả 2500 người chia ra 5 phương, là không địa và bổn xứ. Cái
gọi là khoảng trận là chỗ chứa trận vậy. Võ Vương đánh Trụ, dùng quân hổ bôn là
3.000 người, mỗi trận 6.000 người, cộng lại là 3 vạn quân, đó là phép hoạch địa
(chia đất) của Thái Công.
*
* *
Vua Thái Tôn hỏi: Trận Lục Hoa của khanh chiếm bao nhiều
đất?
Tịnh đáp: Đất Đại Duyệt vuông vức 1300 bước, nghĩa là Lục
Trận chiếm 400 bước chia ra hai khu đông tây. Không địa 1200 bước là chỗ dạy
đánh. Hạ thần thường dạy 3 vạn quân sĩ, mỗi trận 5.000 người, lấy một trận để
dạy phép cất dinh trại, lấy năm trận để xếp đặt hìnhn thế vuông, tròn, cong,
thẳng, nhọn. Mỗi trận có năm lần biến, tổng cộng là 25 lần biến trở lên.
Vua Thái Tôn hỏi: Trận Ngũ Hành như thế nào?
Tịnh đáp: Vốn theo 5 phương, sắc mà đặt ra tên ấy, còn 5
trận vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn là do địa hình mà ra. Nếu không tập sẵn 5
thứ trận ấy, làm sao có thể gặp địch được? Thuật cầm binh là thuật dả dối, nên
tạm gọi là ngũ hành. Bề ngoài thì lấy nghĩa ở thuật số là tương sinh, tương
khắc, mà thực ra bề trong hình thế của binh là giống như nước, tùy theo hình
dạng của đất đai mà tìm đường chảy, ý nghĩa là như thế.
140.- CÁCH TẬP LUYỆN:
Người ta thường chết ở chỗ mà mình bất lực, thường thất bại
ở chỗ bất tiện cho mình. Cho nên trong phép dùng binh, sự tập luyện phải đứng đầu.
- Một người học đánh, dạy lại vạn người biết đánh.
- Vạn người học đánh, dạy lại thành ba quân biết đánh.
Lấy ta ở gần chờ đánh địch từ xa tới.
Lấy ta nhàn chờ đánh địch mệt.
Lấy ta no chờ đánh địch đói.
Binh ta đang bày viên trận, ta buộc chúng đổi thành phương
trận.
Binh ta đang ngồi, ta buộc chúng đứng dạy đi.
Binh ta đang đi, ta buộc chúng đứng lại.
Binh ta đang đi qua trái, ta buộc chúng đi qua phải.
Binh ta đang quay ra trước, ta buộc chúng quay ra sau.
Binh ta đang phân tán, ta buộc chúng tụ hợp lại.
Binh ta đang kết hợp, ta buộc chúng giải tán.
Mỗi việc biến dịch ấy đều phải tập luyện cho quen thuộc rồi
mới sử dụng binh ấy được, đó là phận sự của tướng súy.
141.- KIỂM SOÁT VIỆC
TẬP LUYỆN:
Binh sĩ thường ngày chìm đắm trong cảnh tiện nghi, an lạc,
không được tập quen sự cần lao. Nay muốn sửa lại sự đồi trụy, luyện gân cốt,
làm cho mạnh khỏe thì không gì bằng thi hànhphép tắc then chốt sau này.
Từ nay trở về sau phải kiểm soát xem các quan đốc phủ, đề
trấn có theo lệ cử hành việc tập luyện cho đều hay không? Mỗi năm vào khoảng
thu đông, phải cử hành hai ba lần để tập cho lính quen việc lao khổ và khuyến
khích sĩ khí, phép ấy rất hay.
142.- THƯỞNG PHẠT
TRONG KHI TẬP LUYỆN:
Về giáo lệnh trong việc binh, việc chia dinh lập trận, nếu
có ai không nhận được lệnh mà cứ tùy ý tới lui, thì buộc họ vào tội trái lệnh.
Ai cần đi trước, hoặc đi sau, hoặc đi bên phải, hoặc đi bên trái, thì nên dạy
họ phải đi như thế nào. Việc răn dạy được chu đáo, thì người thủ lãnh được
thưởng. Không răn dạy cũng đồng một tội như là trái lời dạy vậy.
Khi lâm trận, một ngũ (toán 5 người) phải hành động như một
người. Nếu có một người không chịu liều chết tiến đánh quân địch thì người răn
dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Mỗi thập (toán 10 người)phải tự giữ gìn, nếu
mất một người mà chín người không liều chết tiến đánh quân địch thì người răn
dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Từ thập trở lên cho tới tỳ tướng nếu có ai
trái phép thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp.
Người ngũ trưởng (cầm đầu ngũ) dạy bốn người kia, lấy ván
làm trống, lấy ngói làm chiêng, lấy trúc làm cờ. Nghe đánh trống thì tới, thấy
hạ cờ thì chạy, nghe đánh chiêng thì lui. Thấy vẫy cờ thì quay qua trái, vẫy cờ
thì quay qua phải. Nghe chiêng trống cùng đánh thì ngồi. Ngũ trưởng luyện tập
xong thì hợp với tốt trưởng, toết trưởng luyện tập xong thì hợp với bá trưởng,
bá trưởng luyện tập xong thì hợp với binh úy, binh úy luyện tập xong thì hợp
với đại tướng, đại thướng luyện tập xong thì bày trận ở đồng giữa, đặt bảng
lớn, cứ 300 bước một bảng. Bày xong thì đi gấp rút cách bảng 100 bước, phóng
gấp 100 bước. Tập đánh cho đúng tiết độ rồi bày ra thưởng phạt.
143.- CHIA THỨ HẠNG
SANG HÈN:
Ngày xưa muốn răn dạy dân chúng, người ta phải chia thứ hạng
sang hèn, để cho những kẻ học kinh sử chẳng tranh giành nhau, những kẻ đức
nghĩa chẳng lấn lướt nhau, những kẻ tài nghề chẳng che giấu nhau, những kẻ mạnh
dạn chẳng xúc phạm nhau, nhờ đó mà ý chí đồng nhất, tâm ý hòa hợp.
144.- TRIỀU ĐÌNH VÀ
QUÂN NGŨ:
Ngày xưa, khách của triều đình không được vào quân ngũ,
khách trong quân ngũ không được vào triều đình cho nên tài đức chẳng lấn nhau.
145.- KHUA ĐỘNG:
Về các cách khua động, thì có phất cờ xí, đập xe, đập ngựa,
khua binh khí, vỗ đầu, dậm chân: bảy cách khua động đều phải thực hành một lần.
146.- KHUYẾT ĐIỂM:
Nếu đông cũng như ít, hơn cũng như thua, binh khí chẳng sắc
bén, giáp trụ chẳng bền bỉ, xe không vững chắc, ngựa không chạy hay, đông mà
chẳng tự mình có nhiều, như thế là chưa được đạo.
147.- TÁM TRẬN, CHÍN
QUÂN:
Khí thế mạnh mẽ đều do tám trận Thiên, Địa, Phong, Vân,
Long, Hổ, Điểu, Xà mà ra. Lại lập ra chín quân, để phân biệt rõ, và xây đắp khí
thế của trận hình.
Một là thân quân gồm những gia đinh mạnh mẽ để hộ vệ đại
tướng.
Một là phẫn quân gồm những người muốn báo thù, nguyện đi
trước.
Một là thủy quân có thể xông pha sóng nước, lật thuyền, trộm
chèo.
Một là hỏa quân có thể phi ngựa xông pha lửa đạn, từ xa đến
hãm trận địch.
Một là cung nỗ quân có thể ẩn nấp chỗ hang hầm, kéo dây cung
cùng buông tên một lượt, chế ngự được quân địch ngoài trăm bước.
Một là xung quân có sức mạnh lay chuyển núi non, khí thế
hiện ra ở cờ xí, dùng để hãm trận người, bắt bọn giặc mạnh.
Một là kỵ quân, kiêu dũng khác thường, phóng ngựa qua lại
giữa hai trận, đuổi đánh quân địch ở chốn xa xôi.
Một là xa quân, tài sức khéo léo nhanh nhẹn, tới thì xông
pha tên đá, lui lấn át quân kỵ, khiến địch không thể đụng đến ta.
Một là du quân qua lại lanh lẹ để tuần phòng, cứu ứng ba
quân, mọi cử động đều liên hệ đến ba quân, có những kẻ leo trèo nhanh nhẹn, đi
như rắn, nấp như chuột, leo đèo, xuống vực, vượt thành, khoét vách…
Chín toán quân nói trên chạy đi chạy lại để che chở trung
quân, còn dư thì chia ra tám góc. Ở các góc để chế ngự, hợp lại để cùng ra
quân. Có thể co, có thể dãn, khiến cho trong một trận tất cả huyết mạch đều
liên lạc với nhau, liên kết chằng chịt mà thông suốt hết thảy.
148.- HÒA HIẾU VÀ
THÀNH TÍN:
Kết hợp ba quân thì được đông đảo vậy. Chỉ nhờ vào sự hòa
hiếu để kết hợp mà thôi. Kẻ trí xét nó, kẻ dạn dùng nó, kẻ muốn thỏa mãn nó, kẻ
bất khuất nuôi sống nó. Làm bộc lộ sự căm tức, làm sống lại hận thù. Thấy mụt
nhọt của người như của mình, bắt tội người mà trừ giết thì như tỏ lòng bất
nhẫn. Kẻ có công lao nhỏ nhặt cũng phải ghi chép. Kẻ làm được việc thì ban cấp
chẳng thường. Được tiền của thì chia đều. Đối với kẻ theo hầu giúp việc thì
thương xót. Vỗ về dân chúng, tìm mời kẻ thành tín. Bắt địch chớ giết nhiều. Nếu
thành tín như thế, há chỉ có ba quân tuân theo sự chỉ huy của ta thôi đâu? Tất
cả thiên hạ sẽ trông ngóng ta như đón gió mát vậy.
149.- CẦM BINH:
Việc binh chẳng phải là việc hay. Cái tài làm lợi cho mình
cũng là cái tài chuốc hại vào mình. Kẻ mạnh ắt phải giết, kẻ dạn ắt có lòng
lang sói. Kẻ trí ắt phải giả trá, kẻ mưu đồ ắt phải nhẫn nhịn. Việc binh không
thể bỏ sót những kẻ mạnh, dạn, trí, mưu mà không dùng, tức là không thể bỏ sót
những kẻ lang sói, ham giết, giả trá, nhẫn nhịn. Cho nên kẻ cầm binh giỏi thì
dùng được tài năng, bỏ điều bất lợi, thâu thập điều bổ ích, trừ khử điều tổn
hại, như thế thiên hạ không khi nào thiếu kẻ tài năng. Kẻ cựu thù cũng có thể
chiêu vời, kẻ làm giặc cũng có thể vỗ về, kẻ trộm cướp cũng có thể cất nhắc. Kẻ
quả cảm khinh thường pháp luật, kẻ theo hùa với quân địch, và kẻ xa lạ đều có
thể dùng được cả.
150.- RÈN LUYỆN:
Ý khởi mà sức yếu, đó là khí suy. Sức dư mà lòng sợ trở
ngại, đó là thiếu gan mật. Lúc khí đã suy, gan mật đã mất, thì trí dũng cũng
hết mà không thể dùng. Cho nên cần phải lập thế để luyện khí, coi nhẹ thắng lợi
để luyện mật, bày tỏ lòng mình để luyện tình, tập tành để luyện trận.
151.- KHÍCH LỆ:
Khi khích lệ quân sĩ, chẳng nên nhờ cậy vào pháp luật. Danh
vọng được thêm thì kẻ cương dũng phấn khởi. Đem lợi lộc mà dẫn dụ thì kẻ nhẫn
nại, quả quyết sẽ phấn khởi. Dùng thế lực mà bức bách, lấy nguy nạn mà vây hãm,
dùng xảo thuật mà lừa dối thì kẻ nhu nhược cũng phấn khởi. Nếu tướng biết thi
ân, thị uy thì lòng quân hòa hiệp, việc mưu đồ sẽ thành tựu, ắt là sĩ tốt trong
ba quân sẽ giống như rồng cọp rình mồi, khi gặp địch thì khắc chế ngay mà lại
có thể lập thế giúp oai nêu cao tiết khí, nếu có thua chạy cũng không mất nhuệ
khí, tuy gặp nguy nan vẫn không sờn lòng, như thế bất kỳ ai, ở lúc nào cũng
được phấn chấn.
152.- PHÁP LỆNH:
Ràng buộc ngựa thì lấy giàm mà đóng vào đầu, muốn ràng buộc
binh sĩ thì dùng pháp lệnh. Cho nên muốn hơn thiên hạ thì không thể bỏ pháp
luật. Nhưng phải thi ân trọng hậu rồi mới có thể thi hành pháp luật. Hình phạt
phải thi hành rồi sau mới lập uy được. Như thế kẻ giỏi dùng binh lấy tiêu chuẩn
được, thua để định công tội, biết rõ ai đánh, ai chạy để cứu giúp kẻ tổn
thương. Giết một người mà mọi người khiếp uy, phạt kẻ hèn nhát, chém kẻ thất
bại, mà quân sĩ càng thêm phấn khởi. Đứng nghĩ lặng lẽ như núi non, chuyển động
mau lẹ như băng đổ, khiến cho quân sĩ không dám khinh lờn phép tắc, cho nên chỉ
thắng lợi mà không thất bại.
153.- DÙNG TÀI:
Than tiếc rằng trời khó sinh nhân tài mà có kẻ sĩ trí mưu
đến nhờ vả lại không được trọng dụng, có tướng chịu đi đánh địch mà ta lại ngăn
cản.
154.- LO NGHĨ ĐẾN
QUÂN SĨ:
Kẻ làm tướng phải hỏi thăm việc hư hại, chẳng bao giờ sai
khiến mà không thông cảm, đó là cách lo nghĩ bậc nhất đến quân sĩ. Khi quân sĩ
phải mang giáp trụ trải nắng dầm sương, đói khát thiếu thốn, thân thể bị thương
tích mà chẳng dám than khổ, gặp cơn hiểm nạn mà chẳng dám kêu mệt, cho nên kẻ
giỏi dùng binh chẳng để quân sĩ của mình bị địch vây hãm, ai theo thì dùng, ai
bỏ thì giết, đó là cách lo nghĩ bậc hai đến quân sĩ.
155.- NHUỆ KHÍ:
Nuôi uy thì quý ở sẵn có, ứng biến thì quý ở mưu cao. Hai
quân đang đánh nhau, nghe hô một tiếng thì phấn khởi, đó chỉ nhờ nhuệ khí mà
thôi. Quân địch đông đảo đánh tới dữ dội, còn ta ít quân mà tới ngăn chặn chúng
được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Giữa đám quân địch, quân ta ra vào, lui tới,
xông xáo dọc ngang được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Tướng kiêu dũng, mạnh mẽ, dữ
tợn, đó là tướng có nhuệ khí. Như gió, như mưa, làm rung chuyển núi rừng, đó là
có nhuệ khí. Tướng đánh tới dữ dội, quân nhảy tới xông xáo, đó là tướng, quân
đều có nhuệ khí. Dùng nhuệ khí không đúng chỗ thì vấp ngã, không có nhuệ khí
thì suy. Có cơ trí mà có thể chu toàn, phát ra mà thâu lại được thì nhuệ khí
không bao giờ hết.
156.- PHÉP CHIẾN ĐẤU:
Phép chiến đấu là so sánh đạo nghĩa, lập tốt ngũ, định hàng
cột, chỉnh đốn đường ngang lối dọc, xét danh thực. Khi đứng mà đi tới thì cúi
xuống, khi ngồi mà đi tới thì quỳ gối. Sợ thì sắp cho dày, thấy nguy hiểm thì
ngồi xuống. Ở xa mà nhìn thì không sợ, ở gần đứng nhìn thì không tan rã. Dưới
ngôi vua, quân hai bên trái phải bỏ giáp ngồi xuống, thong thả thề nguyền.
157.- HỔ BÔN:
Trong một toán quân, ắt có hạng hổ bôn (dõng sĩ) có sức gánh
nổi vạc, khỏe chân chạy hơn ngựa nhung, đều đủ sức giựt cờ giết tướng. Nếu được
như thế, nên chọn riêng họ ra để mà thương yêu quí mến họ, đó gọi là quân lệnh.
Chia họ ra năm thứ binh, có tài năng, có sức mạnh, có sức khỏe, nhanh nhẹn,
nuôi chí nuốt địch. Ban thêm phẩm tước cho họ, để họ quyết thắng, chăm nom cha
mẹ vợ con của họ, thưởng để khuyến khích họ, phạt để họ sợ uy, đó là phép bày
trận vững chắc, có thể giữ gìn lâu dài. Biết xét liệu việc ấy thì có thể dấy
binh gấp bội.
158.- CONG THẲNG:
Võ Hầu nói rằng: Biết trước được cái kế cong thẳng thì sẽ
thắng, đó là phép tranh giành.
159.- HIỆU LỆNH:
Sách Quân Chính nói rằng: Nói mà không nghe nhau nên mới bày
ra chiêng trống. Nhìn nhau mà không thấy nên mới bày ra cờ xí. Mọi người đã
chuyên nhất nên kẻ mạnh dạn không được tiến tới một mình, kẻ khiếp sợ không dám
đi lui một mình, đó là phép sử dụng số đông vậy.
160.- ĐIỀU TRÔNG
MONG:
Năm điều trông mong:
- Mong sĩ tốt được tráng kiện
- Mong cung tên bắn trúng
- Mong tập luyện dao, dáo được tinh thục
- Mong bộ ngũ bày trận được hợp độ
- Mong dùng chiêng trống cờ xí cho đúng tiết
Không được làm điều gì bậy bạ vô ích. Cho nên nếu không
trông mong ở công việc thì có thể trông mong thắng trận được sao?
161.- PHÂN CÔNG:
Theo phép giao chiến thì kẻ ngắn cầm mâu kích, kẻ dài cầm
cung nỏ, kẻ mạnh cầm cờ xí, kẻ dạn cầm chiêng trống, người yếu làm việc vặt
vãnh và nuôi ăn, người trí làm chủ mưu, hàng xóm nương nhau, các đội thập đội
ngũ che chở nhau.
162.- CHIÊNG TRỐNG:
Nghe một tiếng trống thì sắp binh chỉnh tề, nghe hai tiếng
trống thì tập trận, nghe ba tiếng trống thì đi ăn, nghe bốn tiếng trống thì làm
việc nghiêm chỉnh, nghe năm tiếng trống thì vào hàng, nghe trống và chiêng cùng
đánh một lần rồi mới đưa cờ lên.
QUÂN LỄ VÀ THƯỞNG
PHẠT
163.- LỄ NGHI:
Muốn trị quân thì dùng lễ và giữ đầu cán trong tay mình.
Theo phép trị quân thì nhỏ hay lớn đều phải giữ lễ nghi, lòng biết đủ phải thực
hành ra. Trị quân mà không nhờ vào lễ nghi thì kẻ trợ tá sẽ xúc phạm tướng suý,
tướng suý sẽ xúc phạm thiên tử, do đó sinh ra các việc họa hoạn. Quyền bính tối
cao không thể không ở trong tay mình. Nếu quyền bính bị rơi vào tay kẻ dưới thì
trên dưới có thế lực bằng nhau, trên chẳng sai khiến được dưới, dưới chẳng
trình bẩm người trên, đó là bởi quyền bính tối cao không ở trong tay mình. Đời
Hậu Đường quân sĩ giết Tiết Độ Sứ rồi giành luôn chức vụ của người bị giết.
(Gần đây nhà Trịnh suy
yếu không kiềm chế được người dưới, quân sĩ sinh kiêu căng đem đến cảnh loạn
vong, trường hợp này cũng giống như trường hợp trước)*.
* Đoạn này do người
đời sau thêm vào, nhắc tới loạn "kiêu binh" thời Trịnh Khải.
164.- SĨ KHÍ:
Trao kiếm dấy binh, giết trâu bò để đãi quân sĩ, an ủi và
khích lệ sĩ tốt thì sĩ khí sẽ tăng gấp bội. Nên trọng thưởng công lao giữ gìn
biên giới.
165.- GHI CHÉP CÔNG
LAO NHỎ NHẶT:
Nghe giặc xâm phạm biên giới, bọn gian bèn âm mưu làm loạn.
Bậc nhân thần phụng mệnh ra quân để chỉnh đốn vương quốc, bảo tồn vương nghiệp,
lập công trạng lớn lao. Binh pháp nói rằng: công lao nhỏ nhặt mà không được ghi
chép thì chẳng nên thưởng công lao ngoài biên giới.
166.- MIỄN LỄ NGHI
CHO QUÂN SĨ:
Trong quân thì ráng sức mà tiến lên, trong hàng ngũ thì thi
đua lấy thành quả. Mang giáp trụ thì không lạy, ngồi binh xa thì không làm lễ.
Nên việc thì chẳng để sai chệch, gặp cảnh nguy nan chẳng sờn lòng. Cho nên lễ
nghi và phép tắc là bề ngoài và bề trong, văn và võ là tay phải tay trái.
167.- TIẾP ĐÓN BỀ
TRÊN:
Nếu bề trên đi kiệu mà đến, thì đạo tôi con là phải giết
trâu bò, rót rượu mà đãi đằng trăm quan, há dám vin cớ có giặc mà thiếu lễ với
bậc vua, cha hay sao?
168.- TRỄ NÃI, ĐÀO
NGŨ:
Lính đến trại của đại tướng trễ sau tướng và lại sĩ một ngày
thì cha mẹ vợ con cũng mang tội như nhau. Lính trốn về nhà một ngày mà cha mẹ
vợ con chẳng bắt nộp hay không báo cáo thì mang tội như nhau.
169.- BỎ RƠI ĐỒNG
NGŨ:
Ham đánh mà quên cả tướng súy và lại sĩ hay là tướng súy và
lại sĩ bỏ rơi quân lính mà chạy trốn một mình thì phải đem chém hết.
Lại sĩ trước bỏ lính mình mà chạy, lại sĩ sau chém được lại
sĩ trước và giữ lính lại thì được trọng thưởng.
170.- LIÊN ĐỚI TRÁCH
NHIỆM:
Ba quân đang đánh lớn, nếu đại tướng chết mà có trên 500
quân theo lại sĩ không chịu liều chết đánh lại quân địch thì phải chém hết, các
quân lính theo hầu gần đại tướng ở giữa trận cũng phải chết chém. Ngoài ra các
sĩ tốt có công trạng phải bị giáng xuống một cấp, sĩ tốt không có công trạng
thì phải đi lính thú ba năm.
Trong một ngũ có người thất lạc hay chết mà không lấy được
thây, thì mọi người trong ngũ đều mất hết công trạng, nếu tìm được thây thì xá
tội hết thảy.
171.- BA THẮNG LỢI:
Nay dùng pháp luật để trừng trị sự bỏ trốn, ngăn ngừa sự
giảm quân số, đó là thắng lợi thứ nhất về việc binh.
Thập và ngũ nối liền nhau. Khi chiến đấu, lính và lại sĩ cứu
nhau, đó là thắng lợi thứ hai của việc binh.
Tướng giữ uy võ, lính giữ tiết độ, hiệu lệnh tính thực, đánh
hoặc giữ đều thành công, đó là thắng lợi thứ ba của việc binh.
172.- LỆNH NGĂN CẤM
QUÂN SĨ:
Nghe rằng người xưa trị quân, khi trời mưa, trong quân có
người lấy của dân một cái nón để che đầu thì người ấy phải bị chém đầu để rao
cho mọi người biết. Huống là chặt phá cây cối, dẫm nát ruộng nương của dân, phá
hủy nhà cửa của dân, gian dâm, trộm cắp, chặt đầu của binh sĩ chết (?), giết
con trai của giặc, làm nhục vợ của giặc, thậm chí giết thường dân bừa bãi rồi
chặt đầu bào là đầu giặc, như thế lý trời chẳng dung, phép vua chẳng tha. Ai
mang tội ấy thì sẽ bị xét xử theo quân pháp.
173.- THƯỞNG NGƯỜI
NHỎ, PHẠT NGƯỜI LỚN:
Tướng lấy việc giết người lớn làm uy, thưởng người nhỏ làm
sáng suốt. Bởi vì giết người đang ở địa vị quý trọng, đó là hình pháp cực
nghiêm vậy. Thưởng cho kẻ chăn trâu, giữ ngựa, đó là sự tưởng thưởng thông suốt
tới người dưới. Do đó mà tướng suý xây dựng được uy tín cho mình.
174.- DÙNG NGƯỜI:
Lính chưa thân thiết với mình mà đã phạt chúng thì chúng
không phục, nếu chúng không phục thì khó dùng. Khi lính đã thân thiết với mình
mà sự trừng phạt không thi hành thì cũng không dùng được. Cho nên lấy văn mà
sai khiến chúng, lấy võ mà sửa trị chúng, đó là phép dùng người. Mệnh lệnh mà
mình đã tự thi hành rồi đem ra dạy dân thì dân sẽ phục, mệnh lệnh mà mình tự
thi hành rồi đem ban bố cho dân thì sẽ được hợp ý.
MẠC HẠ
175.- CHỌN LỰA NHÂN
VIÊN CHO MẠC PHỦ (BỘ TƯ LỆNH):
Chọn hai người cho việc thiên văn: Xem sao, xem lịch, xét
phong thổ, khí hậu, chọn ngày giờ, quan sát các việc thiên tai quái dị.
Chọn hai người coi việc địa lợi: xét hình thế đất đai lợi
hại, xa gần, khó dễ.
Chọn hai người coi việc coi việc binh pháp: giảng luận binh
pháp, luyện tập việc binh.
Chọn hai người coi việc thư toàn (kế toán): ghi chép lương
hướng, quân số, khí giới.
Chọn hai y sĩ: để điều trị quan nhân.
Chọn ba du sĩ (điệp viên hay thám tử): để làm việc gián
điệp, tuần thám.
Chọn bốn người coi việc thư từ (công văn): để soạn thảo các
từ, trát, chương, sớ, viết các bài tấu, biểu.
176.- DÙNG PHÉP KỲ (TRÁI VỚI PHÉP CHÍNH):
Cầm quân mười vạn, biết bao nhiêu là sĩ tốt phải chết vì
xông pha nguy hiểm, cho nên không thể dùng phép kỳ.
Đem quân đi đường ngàn dặm, gặp biết bao nhiêu là gián điệp
tài nghề thần diệu nên cũng không thể dùng phép kỳ.
Ta xem các nhà chuyên dùng phép kỳ, hễ mưu kế lập sẵn rồi
thì thành công, còn nếu gặp đánh bất ngờ thì phải thất bại, thực có trường hợp
như thế.
Há chẳng phải quân cảm tử chẳng giúp tướng súy, gián điệp
chẳng được tưởng thưởng công khai! Ân huệ đã cảm động được lòng người, nghĩa
khí đã kết thành, thế mà thường phải lo sợ không rằng được, huống hồ là tướng
súy chẳng từng trải gian lao, huống hồ là lương hướng không sẵn sàng, bấy giờ
gặp lúc cần kíp, nháy mắt còn chưa kịp, dẫu có dùng phép kỳ, đâu có thể mình tự
dùng được hay sao?
177.- DÙNG NHÂN TÀI:
Bậc vương giả có nhiều người làm tay chân, tai mắt, bậc đại
tướng có lắm kẻ làm vây cánh giúp rập. Cho nên quân đội dùng nhân tài giống như
triều đình.
Có hạng trí sĩ (kẻ sĩ có mưu trí) coi việc tham mưu, việc
tán hoạch, việc mưu lược, dùng ngay dưới trướng để quyết định việc quân cơ.
Có hạng dũng sĩ (kẻ sĩ mạnh dạn) như là kiêu tướng, kiện
tướng, mãnh tướng … chuyên lo việc quyết chiến, xung đột, dẫn quân đảm đương
các việc nguy hiểm trước mọi người.
Có hạng thân sĩ (kẻ sĩ thân cận) như là tư tướng, ốc tướng,
nha tướng, cốt để hầu gần ở hai bên mình, tuyên bố mệnh lệnh, nắm giữ cơ quyền.
Có hạng thức sĩ (kẻ sĩ biết rộng) hiểu trận nghi, biết biến
hóa xem cảnh trí, thăm dò mây, nước, gió, mưa, xét đất đai, thấy rõ địch tình,
biết được điều sâu kín, nhỏ nhặt, quyết định việc quân tới, lui, ngừng nghỉ.
Có hạng văn sĩ (kẻ sĩ văn học) thông suốt việc xưa nay, hiểu
rõ dịch lý, giữ gìn nghi tiết, soạn thảo các tờ hịch sớ, từ, chương …
Có hạng thuật sĩ (kẻ sĩ biết pháp thuật) thông thạo các việc
thần linh, âm dương, ngày giờ tốt xấu, bói toán, pháp thuật, để làm lợi cho
mình, tổn hại cho địch.
Có hạng số sĩ (kẻ sĩ coi về toán số), coi sổ sách kế toán,
quân số, việc bổ dụng, thăng thưởng, quân nhu …
Có hạng kỹ sĩ (kẻ sĩ khéo léo) như kiếm khách, cảm tử, giỏi
việc trộm cướp, giỏi việc du thuyết, gián điệp, ra vào thành lũy của địch một
cách dễ dàng…
Có hạng nghệ sĩ (kẻ sĩ có nghề riêng) lo về tiền của, khí
cụ, đào hào rãnh, tu bổ vật hư hỏng, sáng chế các máy móc lạ lùng…
Ngoài ra, mỗi người đều có biệt tài, thí dụ như cười đùa,
nhảy múa, chưởi mắng, ca hát, nấu nướng, giả dạng, chạy nhanh …
178.- TRÍ VÀ LỰC:
Trời sinh ra người, nếu khí tụ tại trung hư thì sinh ra trí
tuệ, nếu khí tan ra bốn tay chân thì mộc mạc. Mộc mạc thì có nhiều sức. Kẻ trí
thì yếu ớt. Những kẻ trí dũng kiêm toàn ở trên đời không có nhiều. Cho nên ai
hơn được một trăm người thì đứng đầu một trăm người, ai hơn được một ngàn người
thì đứng đầu một ngàn người. Hơn một ngàn người thì thành một quân. Ai có tài
ứng biến với thời cơ, có thể đương đầu với một cuộc tấn công thì đủ sức làm
trưởng quân (cầm đầu một quân). Quân có lúc bị cô đơn, sai khiến tướng quân ắt
mong dùng lấy một mình, cho nên nếu giỏi dùng nhân tài thì kẻ trợ tá cũng có
thể làm đại tướng.
BINH CỤ
179.- CÔNG DỤNG CỦA
MỖI ĐỒ VẬT:
Móc, dùi dùng để làm đất
Búa, rìu, dao, cưa dùng để làm cây gỗ
Thợ rèn dùng để làm đồ kim chất
Trâu ngựa dùng để chuyển vận
Gà chó dùng để dò xét
Thợ may dùng để may áo trận
Thuốc men dùng để chữa bệnh
Chông gai để phòng lót đường bẫy giặc
Giày da để phòng chạy gấp
Lương khô đề phòng thiếu thức ăn
180.- PHÉP DỤ BẮT
NGỰA GIẶC:
Ngày xưa đời Hậu Đường, Sử Tư Minh làm phản. Hắn có ngàn
ngựa hay, mỗi ngày đem ra sông Hà Chữ mà tắm rửa, làm tuần hoàn như thế để tỏ
rằng mình có nhiều ngựa.
Lý Quang Bật khiến tìm trong năm quân trăm ngựa đực, đánh
vào đầu chúng ở trong thành, chờ khi ngựa giặc đến sông Hà Chữ, thì cho ngựa
của mình đi ra hết. Đàn ngựa hí mãi không thôi. Ngựa giặc nghe tiếng hí bèn bơi
qua sông đi hết vào trong thành.
182.- HỎA TIỄN:
Hỏa tiễn có thế rất mạnh, quân địch sợ nó hơn là cung nỏ.
Nếu chế hay, mỗi chiếc có thể bắn xa sáu bảy trăm bước. Phải nện thuốc súng
chừng ba vạn cái mới dùng được, đầu trên dùng chất mồi lửa chừng hai phần mười.
Gặp trường hợp hỏa tiễn quá mạnh mà buồm chiếu quá mỏng, hỏa
tiễn bắn vào thì xuyên lút qua mà đi luôn thành thử không cháy được. Nếu sợ đi
xuyên qua luôn, thì cách miệng chừng hai ba tấc, ta gắn một chữ thập bằng tre
để chận nó lại. Chỗ tre và sắt tiếp nhau, người ta dùng giây vấn và sơn một lớp
sơn cho kín. Dưới lớp sơn có thể dùng linh hoa để ngăn ẩm thấp. Ở phuơng nam
người ta dùng tới ba trăm chiếc cho vào một ống, gọi là oa phong hay hỏa lung.
Dùng chín chiếc thì gọi là cửu lung đồng. Thứ nhỏ gọi là dũng tiễn.
Có thể ngồi trên ngựa mà phóng hỏa tiễn.
183.- HẦM CHÔNG GAI
DÙNG ĐỂ BẪY NGỰA GIẶC:
Đào hố vuông sâu chừng bốn thước, rồi đặt chông gai ở dưới,
mặt trên gác cây, phủ cỏ và đất cho bằng phẳng như là đất hoang. Nếu giặc xông
tới đánh dinh trại thì sẽ sụp vào hố chông ấy. Người và ngựa của giặc bị thương
sẽ bị phục binh của ta bắt giữ.
HIỆU LỆNH
184.- QUÂN LỆNH:
Một khi hiệu lệnh được phát ra, ba quân đều chấn động sợ
sệt.
Nghe trống thì tiến, nghe chiêng thì dừng.
Nghe súng bắn thì đứng dậy, nghe chuông đánh thì ăn.
Nghe đánh phẫu thì ráng sức, thấy vẫy cờ thì chạy mau.
Gặp mưa không núp, gặp nóng không cởi giáp.
Mệt không buông vũ khí.
Thấy nguy nan không trở lui.
Gặp tiền của không lấy.
Hãm thành không giết bừa bãi.
Có công trạng không khoe khoang.
Dong ruỗi thì lặng lẽ.
Bị đánh cũng không rúng động. Bị chấn áp cũng không sợ hãi.
Bị đánh úp không bỏ chạy, bị đánh cắt ngang mà không phân
tán.
Đó gọi là binh nghiêm chỉnh.
185.- VIỆC QUẤY:
Thánh hiền không thấy sai quấy thì miễn lỗi, binh pháp không
thấy sai quấy thì ghi công. Cho nên kẻ giỏi dùng binh thì thi hành dối trá trái
ngược, dấy nghịch lấy bậy.
Trời luân hành theo thời, quỷ thần mượn thời mà hành động,
mộng mị cũng theo thời mà hiện ra, các vật lạ cũng theo thời mà sinh ra, câu ca
dao, lời sấm cũng theo thời mà nói, mọi việc sắp đặt cũng theo thời mà chia
riêng, tiếng lời cũng theo thời mà phát biểu.
Khuyến khích lòng quân, ngăn trở khí thế của địch, khiến
người không thể liệu lường. Luân chuyển trừ bỏ điều quấy rồi lại dùng điều
quấy. Vả lại điều hư quấy, ngay thẳng nhờ cậy vào nó thì không đủ, dả dối mượn
dùng nó thì thường có dư.
186.- DÙNG PHỤ NỮ:
Thường nghe bậc đại tướng ngày xưa cũng từng nhờ cậy vào sự
mềm yếu của phụ nữ. Khi dùng văn thì khiến cho giặc vui chơi sướng khoái, khi
dùng võ thì cỡi xe chiến đấu, cứu nạn giải nguy, tùy cơ ứng biến, đều có lợi
cả.
187.- DÙNG VĂN ĐỂ DẠY
ĐỀU ƯỚC CẤM LỆNH:
Nghề võ chuyên luận về tánh dũng, nhưng cáo, hịch … thì cần
văn. Có khi một lời nói mà có thể cứu nước, làm cho quân giặc phải đầu hàng. Sĩ
tốt thì ít biết văn chương, chữ nghĩa. Bởi thế cho nên, khi nhàn hạ nên buộc sĩ
tốt tập hò, tập hát, truyền tai nhau các điều ước, cấm lệnh, các bài chiếu
giảng giải các điều nghĩa dũng và cái đạo của quân tử, của nho sĩ, tức là chẳng
làm tổn hại người bề trên. Đó là binh pháp vậy.
188.- BAN BỐ ĐIỀU
LỆNH:
Con người lấy tâm mà định lời, định lời để ra lệnh. Bởi thế
nên phấn khích tánh hào hùng, mưu lược, nói lời cứng cỏi, mạnh mẽ, giữ lòng sắt
đá, chịu trải phong sương, sau đó mới ban bố hiệu lệnh, lập quân pháp nghiêm
minh.
Trước ba ngày, treo lệnh tại quân môn, khiến viên quan quân
chính cầm ban tuyên bố giữa sáu quân. Nếu có ai trái lệnh thì khiến quan quân
chính tập họp quân nhân, rồi theo lệnh mà hành hình để cho sáu quân đều biết
rõ.
189.- TRỪNG PHẠT KẺ
PHẠM QUÂN LỆNH (QUÂN PHÁP):
Khi bậc đại tướng quân đã nhận mệnh, cầm hết quyền chinh
chiến trong tay, làm lễ khao quân xong rồi mới ban bố mệnh lệnh. Ai trái lệnh
sẽ bị giết.
Nghe trống mà không tiến, nghe chiêng mà không dừng, thấy
đưa cờ lên mà không đứng dậy, thấy hạ cờ mà không nằm nấp, đó là quân bội
nghịch, phải chém chúng.
Nghe gọi tên mà không đáp, được vời mà không tới, hoặc tới
mà trễ nãi, cử động sai quy luật, đó là quân ngạo mạn, phải chém chúng.
Ban đêm thì kháo chuyện gian dối, thường biếng nhác không
hăng hái, trù tính sai lầm, hiệu lệnh không rõ ràng, đó là quân lười biếng,
phải chém chúng.
Thường nói lời oán vọng, không được thưởng thì giận hờn,
được chủ tướng dùng thì tỏ ra cứng đầu khó trị, đó là quân ngang dọc, phải chém
chúng.
Tự xưng tên họ phẩm chức mà cười nói, như là trên mình chẳng
có ai, bị ngăn cấm vẫn không chừa, đó là quân kiêu căng, phải chém chúng.
Giữ khí giới mà để cung nỏ đứt dây, tên thì thiếu mũi hay
thiếu lông đuôi, kiếm kích thì đùi lụt, cờ xí rách nát, đó là quân lừa dối,
phải chém chúng.
Nói lời dối trá bày đặt việc qủy thần, mượn chuyện mông mị,
phỉnh gạt lại sĩ, đó là quân yêu nghiệt, phải chém chúng.
Đến nơi nào thí phá phách nhân dân, hãm hiếp phụ nữ, đó là
quân gian tà, phải chém chúng.
Miệng lưỡi sắc bén, hay bàn phải trái, gieo oán giữa các lại
sĩ, khiến họ chẳng hòa hiệp, đó là quân dèm pha, phải chém chúng.
Trộm tiền của người để làm của mình, đoạt thủ cấp của người
khác để dành công lao về phần mình, đó là quân trộm cắp, phải chém chúng.
Khi tướng quân tụ họp để bàn mưu, mà đến gần trướng để nhìn
trộm, nghe trộm sự tình, đó là quân dọ thám, phải chúng.
Khi nghe được mưu kế và hiệu lệnh của quân mình, mà bắn
tiếng ra ngoài để địch quân nghe được, đó là quân bội phản, phải chém chúng.
Khi được sử dụng, mà câm miệng chẳng đáp, gục đầu ủ rũ làm
ra vẻ khó nhọc, đó là quân hèn yếu, phải chém chúng.
Chẳng giữ hàng ngũ, tranh giành trước sau, nói năng ồn ào,
chẳng theo cấm lệnh, đó là quân lộn xộn, phải chém chúng.
Giả vờ bị thương hoặc mang bệnh để tránh việc khó nhọc, giả
vờ cứu giúp kẻ thương vong để lẩn xa, đó là quân dối trá, phải chém chúng.
Khi giữ tiền của, đến lúc ban thưởng lại tây vị những người
thân thuộc khiến cho lại và tốt hờn oán nhau, đó là quân thối nát, phải chém
chúng.
Thấy giặc mà không xét, xét giặc mà không biết rõ, giặc động
mà nói không, giặc không động mà nói có, giặc nhiều mà nói ít, giặc ít mà nói
nhiều, đó là quân lầm lạc, phải chém chúng.
Tại chốn đồn trại, chẳng phải lúc khao quân mà bày ra uống
rượu, đó là quân phóng đãng, phải chém chúng.
Khi pháp lệnh trên đã lập xong, trong lại sĩ có ai phạm phép
thì cứ theo phép mà xử chém.
190.- DÙNG BINH TRÊN
TÁN ĐỊA (ĐỊA PHẬN CỦA MÌNH):
Quân địch vào sâu trong nước ta, mà thành quách chưa hoàn
bị, cỏ lương thiếu thốn, cố thủ thì không lơi. Bên ta nên hẹn nhau quyết chiến,
còn nếu sợ sệt mà thối lui thì ắt chết. Ai bắt được gì, lấy được gì thì ban
thưởng. Ai làm tướng quay lui cũng đem chém, gặp địch mà thân không định, số
mục thay đổi cũng chém; có sắc mặt lo buồn, nghiêng ngả nhìn nhau mà nháy mắt
bỏ bê chiêng trống chẳng ứng đối, đều phải chém hết. Được một thủ cấp cũng
trọng thưởng, như thế mới có thể dùng binh trên tán địa được.
191.- THƯỞNG PHẠT
THEO LỄ NGHI:
Nếu bậc đại tướng cũng dùng lễ nghi để thi hành việc thưởng
phạt thì sĩ tốt không hờn oán mà mọi người sẽ lo sợ.
Một là các điều quân lệnh phải thật nghiêm khắc khi ra quân
lần đầu để cho tai mắt quân sĩ phải thấm nhuần, khiến chúng phải tránh né không
dám phạm vào.
192.- XỬ CHÉM:
Một là giả vờ có bệnh, có ý muốn trốn. Đi nửa đường rồi bỏ
trốn, thì phải chém.
Một là cướp tiền của của nhân dân và hiếp dâm phụ nữ, thì
phải chém.
Một là đào bới mồ mả để lấy tiền của thì phải chém.
Một là tự ý vào các đền, miếu để lấy các đồ vật thì phải
chém.
Một là ngầm giao thiệp riêng với quân địch, làm tiết lậu
quân cơ thì phải chém.
Một là bỏ đội ngũ, tự ý vào nhà dân mà ngủ nghỉ thì phải
chém.
Một là trong đêm vô cớ la ó khiến quân sĩ lo sợ, thì phải
chém.
Một là trong đêm đốt lửa không cẩn thận làm cháy dinh trại,
thì phải chém.
Một là canh giữ, tuần phòng sơ xuất để quân địch thừa cơ lẻn
vào thì phải chém.
Một là tự ý giết tướng và lính đến đầu hàng, thì phải chém.
Một là làm cho cha con, chồng vợ của tướng lính đến đầu hàng
phải xa nhau thì phải chém.
Một là hiếp bức nhau, đánh nhau đến nỗi chết người, thì phải
chém, quản viên cũng bị phạt.
193.- ĐÁNH ĐÒN:
Một là cướp tiền của, chọc phá phụ nữ, thì phải đánh nhiều
bằng gậy.
Một là chửi bới nhau, trái với quân lễ thì phạt đánh bằng
gậy.
Một là trên dưới tranh giành nhau làm mất thứ tự, thì phải
đánh nhiều bằng gậy.
Một là nhận riêng rượu và thức nhắm đến nỗi ăn nhằm thuốc
độc của quân địch thì quản viên chịu trọng tội.
Một là giao thiệp riêng với thầy phù thủy, thầy bói, đồng
cốt, bày đặt ra việc họa phúc, gieo nghi ngờ trong quân ngũ, thì phải đánh bằng
gậy.
Một là say rượu, nói bậy, chẳng giữ vị thứ, chờ tỉnh rượu
xong sẽ đánh bằng gậy và giảng luận cho nghe.
Một là phá phách nhà cửa của nhân dân, bẻ hái hoa quả thì
phải đánh bằng gậy.
194.- KHẨU HIỆU:
Một là phát hiệu lệnh: Buổi chiều trong quân ngũ hãy xét
chung các nhân viên. Tề hầu, Tham tán tới biên lãnh khẩu hiệu. Mỗi canh đổi một
khẩu hiệu. Một khẩu hiệu có hai chữ. Hỏi chữ này phải đáp chữ kia. Thí dụ: Hỏi
võ thì đáp cường, hỏi dũng thì đáp an.
195.- ÁM HIỆU:
Quân đi mà không thông đồng với nhau, ắt những nhóm bị phân
chia không thể kết hợp với nhau, những nhóm ở xa không thể cứu ứng, đây đó đâu
có thể hiểu nhau được, đó là đường lối thất bại. Nhưng thông đồng với nhau mà
không kín đáo thì ngược lại bị địch mưu toan phá hoại. Cho nên nếu không dùng
chiêng, cờ, không dùng ngựa chạy mang lệnh tiễn, không đốt lửa, phun khói, thì
lấy gì mà thông báo những việc kinh động cấp bách?
Hai quân gặp nhau thì nên dùng ám hiệu để liên lạc với nhau,
đi xa ngàn dặm thì liên lạc bằng thư trắng (không đọc được) viết bằng chữ không
ra chữ, dùng lời văn không hiểu được, không viết trên giấy. Kẻ mang thư cũng
không hiểu gì, dầu có tìm tòi cũng không ra gốc tích. Thần diệu thay! Thần diệu
thay! Hoặc bị địch ngăn cách, hoặc bị mất liên lạc, hoặc ở quá xa không kịp gặp
nhau, ắt phải dùng cơ mưu để thông tin theo cách trên.
196.- HIỆU LỆNH LÀ
GỐC:
(Ngày xưa) Võ Vương hỏi rằng: Nếu binh của ta bị phân ra ở
nhiều nơi, muốn chúng tụ hội đúng kỳ hạn, phải làm thế nào?
Thái Công đáp: Theo phép dùng binh thì ba quân đông đảo phải
biết cách biến hóa phân hợp. Bậc đại tướng trước hết phải định chỗ đánh và ngày
đánh rồi mới truyền hịch cho tướng sĩ biết ngày hẹn đánh thành vây ấp, phải tụ
hội nơi nào, ngày đánh phải nói rõ, giờ khắc phải đúng đắn. Đại tướng lập dinh,
bày trận, xây dựng viên môn, dọn đường để chờ tướng sĩ tới, xem thử ai tới
trước, ai tới sau. Ai tới trước hẹn thì thưởng, ai tới sau hẹn thì chém, như
thế xa gần đều chạy lại, ba quân đều tới đủ để góp sức cùng đánh.
Vua hỏi: Thái Công giảng bày sách Cấm Thư, phép thắng bại
ngũ âm như thế nào?
Thái Công đáp: Theo phép dùng binh, hiệu lệnh là tai mắt. Kẻ
dùng binh mà không rõ hiệu lệnh cũng như người mù đi đêm. Hạ thần xem phép dùng
binh trong kinh đều lấy hiệu lệnh làm gốc vậy.
Hết
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)